ĐÌNH XUÂN CHIẾNG (BẢO CHÍNH)
(Di tích Lịch sử Kháng chiến cấp
thành phố)
Đình
Xuân Chiếng (Bảo Chính) xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng nằm ở
phía Tây Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 20 km. Đây là công trình kiến trúc của
người dân địa phương, lưu giữ nét đẹp văn hóa cộng đồng và truyền thống yêu nước,
chống giặc ngoại xâm của người dân xã Ngũ Phúc.
Đình
thờ 3 vị Thành hoàng (1) Cao Sơn thượng đẳng thần; (2) Bạt Hải chi thần (Vũ Hải);
(3) Không Thành chi thần (do sắc phong các đời Vua còn lại ghi: Đồng Khánh thứ
hai (1886), Duy Tân thứ ba (1909)). Cả 3 vị được thờ bằng long ngai, bài vị: Đối
với Ngài Cao Sơn tên húy là Sùng, sinh ngày 15/9; hóa ngày 10, nằm trong bộ tướng
tâm phúc của Hùng Duệ Vương; Ngài Bạt Hải (hay gọi là Vũ Hải), người Du Hải, thời
nhà Trần tham gia kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, sau đó hi sinh trong trận
thủy chiến ở cửa Đại Bàng. Do có quyên góp nhiều lương thực nuôi quân, Vũ Hải
được Trần Hưng Đạo ban thêm chức Giả lương tướng. Ông còn góp 26 mẫu ruộng cho
quỹ nghĩa sương của xã. Sau khi mất được phong phúc thần, hiệu Bạt Hải Đại Vương;
Ngài Không Thành (hiện chưa rõ sự tích).
Theo
các cụ cao niên trong làng kể lại, đình Xuân Chiếng xưa là một công trình kiến
trúc gỗ cổ truyền bề thế, nằm ở phía Đông Nam của làng. Đình có bố cục mặt bằng
hình chữ đinh, khuôn viên rộng, nhiều cây cổ thụ. Theo truyền ngôn, ngôi đình
được xây dựng vào thời Hậu Lê, theo thức chéo đao, tàu góc, có ván sàn, lòng
thuyền, 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung. Sau nhiều lần trùng tu, đến năm 1914
đình được chuyển về phía Tây Nam của làng, cạnh đường liên xã như hiện nay. Trải
qua thăng trầm của lịch sử và sự tàn khốc của chiến tranh, đình Xuân Chiếng nay
là một ngôi đình có niên đại đầu thế kỷ XX, thượng lương đại bái có ghi Thành
Thái thập bát niên (năm 1906).
Ngôi
đình hiện tại quay hướng Tây Nam, nằm liền kề với đường liên xã, trước mặt là một
cái ao khá lớn. Kiến trúc ngôi đình hiện tại bố cục mặt bằng hình chữ đinh, 5
gian đại bái và 2 gian hậu cung. Tòa đại bái được xây theo thức tường hồi bít đốc,
đấu trụ hồi văn. Hệ thống cửa đình gồm 03 bộ cửa chính bằng gỗ lim, đóng theo
thức cửa bức bàn, thượng song hạ bản. Trên hai bức tường phía trước tòa đại bái
ở hai gian hồi đổ 2 ô tròn, trong đặt hoa thoáng hình chữ Thọ cách điệu. Mái
đình lợp ngói mũi, 2 đầu bờ nóc đắp trang trí hoa văn triện rút. Chính giữa bờ
nóc đắp một bức đại tự, 2 góc trên của bức đại tự tạo góc lượn hơi tròn, 2 đầu
của đại tự nằm trên bờ nóc có trang trí hoa văn triện rút, nền của bức đại tự đắp
nổi 3 chữ Bảo Chính thôn.
Bộ
khung chịu lực của đình được liên kết bởi hệ thống các bộ vì, xà thượng và các
hoành mái bằng gỗ lim. 2 vì nóc và 3 gian giữa nhà đại bái có kết cấu kiểu cốn
mê trang trí hoa văn chữ triện, lá lật, đề tài long vân cách điện. Chính giữa
vì nóc, phần tiếp giáp với lưng của câu đầu trổ một ô hình chữ nhật. Cũng với dạng
thức này, tại góc các vì nách và cột cái cũng được trổ các ô hình chữ nhật. Các
bẩy hiên còn lại chỉ chạm chìm hoa văn lá lật đơn giản. Các cột cái của đình có
đường kính khoảng 35cm và cột quân khoảng 25cm. Tòa hậu cung của đình có kết cấu
2 gian 1 bộ vì, kết cấu vì nóc và vì nách của tòa hậu cung tạo cốn mê tương tự
như ở gian giữa tòa đại bái. Các cốn đều chạm nổi và trang trí hoa văn long
vân, chữ triện, chính giữa vì nóc chạm nổi hổ phù. Nhìn chung, ngôi đình còn giữ
được khá nguyên vẹn, đường nét chạm khắc hoa văn khá tinh xảo.
Trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù bị địch khủng bố, đàn áp, cướp bóc
hết sức nặng nề nhưng nhân dân toàn huyện vẫn một lòng hướng theo cách mạng. Đình
Xuân Chiếng là một trong những minh chứng cho thời kỳ đấu tranh cách mạng hào
hùng đầy cam go ấy. Ngôi đình đã chứng kiến nhiều sự kiện cách mạng của nhân
dân trong làng về tinh thần anh dũng đấu tranh chống giặc Pháp xâm lược cả công
khai cũng như bí mật. Do địa điểm ngôi đình nằm sát đường liên thôn, mặt khác lại
ở bìa làng nên là một địa điểm thuận lợi cho cán bộ cách mạng kháng chiến, du
kích hoạt động chống càn, trừ gian cũng như triển khai chỉ đạo tác chiến đánh bốt
Mõ.
Những
năm 1946 - 1954, ngôi đình là nơi làm việc của các bậc chức dịch trong làng,
xã, các hoạt động tế lễ, mở hội diễn ra theo đúng trình tự. Tuy nhiên, đó chỉ
là những hoạt động nhằm che mắt địch. Bởi lẽ, các cán bộ kháng chiến của ta là
công an mật, bộ đội Quang Trung… Họ đã được ngụy trang, cài vào hàng ngũ chức dịch
trong bộ máy hành chính cấp làng xã đương thời. Trong đó, có người giữ chức
chánh tổng, có người là hương chủ, có người là trương tuần… Để thuận lợi cho việc
hoạt động bí mật, ngay từ những ngày đầu lực lượng kháng chiến của ta đã được
nhân dân đùm bọc, nuôi giấu tại đình. Trong hậu cung và chính giữa gian tiền đường
cũng như khuôn viên của đình đều được đào hầm bí mật. Trong suốt thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đình là nơi họp bàn, phân công nhiệm vụ của
Đảng, cách mạng - là trung tâm chỉ đạo tác chiến đánh bốt Mõ. Đình còn là nơi
đơn vị Vệ quốc đoàn đóng quân. Tại đình đã chứng kiến sự dã man, tàn bạo của kẻ
thù trong những lần chúng càn quét. Những năm 1949 - 1952, để uy hiếp tinh thần
cách mạng của đồng bào trong xã, chúng đã dồn dân ra trước đình, bắt 28 thanh
niên đánh đập, tra tấn dã man, sau đó dìm xuống ao đè cối đá lên người. Song với
tinh thần kiên trung bất khuất, họ đã không khai nửa lời, bọn giặc càng điên cuồng
mở nhiều trận càn quét, lùng sục. Cuối cùng chúng đã bắt một số cán bộ của ta
và bắn chết tại đình.
Trải
qua thời gian, đình Xuân Chiếng vẫn bảo lưu được một số di vật, cổ vật: Sắc
phong 02 bản: (1) Sắc phong Hiệp Linh phù chính Đôn Uy Đôn Tĩnh Hoàng Tuấn Trác
vĩ Cao Sơn thượng đẳng thần (Đồng khánh nhị niên (1886); (2) Sắc phong Hiệp
Linh Phù Chính đôn uy đôn tĩnh Hùng Tuấn Trác vĩ Dực Bảo Trung Hưng Cao Sơn thượng
đẳng thần; bia đá; bia bậu thần, đại tự, câu đối... Ngoài ra, toàn bộ các đồ tế
tự như long ngai, bài vị, bát hương, hoành phi câu đối, bát biểu, mâm mịch, lọ lộc
bình đều là do dân mới cúng tiến vào đình những năm gần đây.
Theo
truyền thống trước đây, cứ vào dịp lễ tiết trong làng, nhân dân địa phương lại
tổ chức dâng hương, lễ bái. Các ngày sự lệ thường diễn ra như sau: Lễ kỳ phúc,
ngày 2/1 âm lịch; lễ kỳ an, ngày 6/1 âm lịch; lễ tế thần, ngày 12/1 âm lịch. Phẩm
lễ có bánh giầy, bánh chưng, chè đông. Lễ hội diễn ra khá linh đình, ngoài tế lễ,
còn có các trò chơi dân gian như đấu vật, đánh cờ người, đánh pháo đất, đi cầu
thùm...
Ngày
nay, làng Xuân Chiếng vẫn bảo tồn lễ hội để dân làng tôn vinh, tưởng niệm các
anh hùng dân tộc, nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn, thu hút sự tham gia đông
đảo của nhân dân trong làng ngoài xã. Sự tồn tại phát triển của cả làng, sự
bình yên của từng cá nhân, niềm hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng
dòng tộc, sự sinh sôi của gia súc; sự bội thu của mùa màng mà từ bao đời đã quy
tụ vào chữ “Nhân khang, vật thịnh”. Đó cũng là ước vọng muôn đời của nhân dân
làng Xuân Chiếng nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung, nhằm
đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần vào việc bảo tồn,
khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở mỗi địa phương.
Ngày 09 tháng 02 năm
2010, Uỷ ban Nhân dân thành phố ra Quyết định số 261-QĐ/UBND công nhận Đình Xuân Chiếng là Di tích Lịch sử Kháng
chiến cấp thành phố.