MIẾU ĐOÀI
Di tích lịch sử cấp quốc gia
Miếu Đoài thuộc thôn
Du Lễ, xã Kiến Quốc, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, là công trình văn
hóa, tín ngưỡng cổ, nơi tưởng niệm công đức của Trương Nữu (737- 791), một vị
tướng thời Phùng Hưng đối với quê hương, đất nước.
Theo thần tích ngọc
phả lưu giữ tại di tích và truyền thuyết lưu truyền trong nhân dân địa phương:
Trương Nữu sinh ra và lớn lên tại trang Do Lễ thuộc xứ Hải Đông (Hải Dương, Hải
Phòng) và Quảng Ninh hiện nay, sau gọi là xã Du Lễ, huyện Nghi Dương, phủ Kinh
Môn, tỉnh Hải Dương. Khi cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan thất bại, Trương Liễu về
ẩn dật tại trang Do Lễ, ông kết hôn với bà Hoàng Thị Cầu con gái một gia đình vọng
tộc ở bản trang và sinh được một người con trai đặt tên là Trương Nữu. Khi lớn
lên, Trương Nữu có sức khỏe hơn người, nhổ được cây to, nâng được tảng đá lớn.
Do được cha dạy dỗ nên Trương Nữu rất giỏi võ nghệ, thông thạo cung kiếm. Năm
766, Phùng Hưng ở đất Đường Lâm dấy binh khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà
Đường, Trương Nữu đã tình nguyện tham gia, được phong làm Đại tướng quân rồi Đại
Tư Mã. Năm 791 nhà Đường tiếp tục đem quân sang nước ta, vua Phùng An xin hàng,
Trương Nữu rút quân về trang Do Lễ xây thành đắp lũy cự giặc. Nhưng thế giặc mạnh,
thành bị giặc bao vây tiến công liên tiếp cuối cùng bị thất bại. Thế giặc mạnh,
ông cùng các tướng vừa đánh vừa rút về núi Vũ Linh Sơn thì mất tại đó. Nhân dân
Du Lễ tiếc thương người con dũng cảm của quê hương đã anh dũng hy sinh vì đất
nước nên đã xây dựng miếu thờ ngay trên mảnh đất cũ của gia đình Trương Nữu, là
miếu Đoài ngày nay. Nhân dân truyền rằng Trương Nữu không chỉ là một võ tướng
tài ba giàu lòng yêu nước, yêu quê hương trong cuộc nổi dậy lật đổ ách đô hộ của
nhà Đường mà còn là người hết mực thương yêu nhân dân nhất là những người nghèo
khổ.
Miếu Đoài là một
công trình kiến trúc không lớn, nằm dưới bóng cây xanh, quay hướng Tây nam, trước
mặt là cánh đồng lúa. Kiến trúc miếu được bố cục theo kiểu chữ đinh đơn giản, gồm
5 gian tiền đường và 1 gian hậu cung. Tường hồi xây bằng gạch theo lối bổ trục
giật hai cấp, nền miếu tôn cao 48 cách mạng so với sân phía trước. Về mặt kiến
trúc, miếu Đoài vẫn giữ được phong cách cổ truyền dân tộc với những đường nét
trang trí điêu khắc mềm mại, dứt khoát.
Các di vật ở miếu
Đoài được thừa hưởng một số đồ tế tự của đình Du Lễ mang về nên các di vật ở
đây thực sự là những tác phẩm điêu khắc đẹp, sơn son thếp vàng rực rỡ như:
1. Long đình còn 2
chiếc đặt ở hai gian hồi đốc tòa tiền đường có kích thước tương tự nhau (cao
2,5m, vuôn bốn mặt rộng 0,99m). Long đình tạo dáng lầu 2 tầng 8 mái, đỉnh được
tạo bởi 8 con rồng uốn lượn, đuôi cong chụm lại thành hình ngọn lửa, đầu quay
nhìn bốn hướng.
2. Khám gỗ: 01 chiếc
đặt trong tòa hậu cung, kích thước dài 1,7m, rộng 1,1m, cao 2,1m.
3. Nhang án gỗ: Đặt ở
giữa tòa tiền đường kích thước cao 0,98m, dài 2m, rộng 0,8m.
4. Khám thờ: Được đặt
trong khám gỗ lớn trong tòa hậu cung khám thờ, có cấu tạo tương tự khám gỗ
5. Y môn: 05 chiếc đặt
ở gian giữa tòa đường
6. Câu đối: 01 đôi
hình lòng máng, chữ Hán viết dọc bằng hình thức khảm trai
7. Cuốn thư: 01 chiếc
8. Sắc phong: 03 đạo
sắc phong: Cảnh Thịnh (1793), Tự Đức (1853), Khải Định (1924)
Ngoài một số di vật
nêu trên còn một số đồ thờ khác như bức đại tự sơn son thếp vàng, 1 đỉnh đồng,
1 bộ bát biểu, vài bát hương sức, lọ độc bình sứ…
Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược, miếu Đoài ở thôn Du Lễ cũng đã bị hư hỏng nặng nề. Sau
được nhân dân xây dựng lại, tiếp tục duy trì việc thờ phụng Thành hoàng Trương
Nữu và tổ chức lễ hội hằng năm vào các ngày Thánh đản 15/9, Thánh hóa 10/2, thu
hút đông đảo nhân dân địa phương về tham gia.
Di tích miếu Đoài là một di tích lịch sử văn hóa rất có giá trị, nơi phản
ánh về lịch sử ngàn năm đấu tranh chống xâm lược thời Bắc thuộc, minh chứng cho
tinh thần quật khởi, ý chí chống xâm lăng và lòng yêu nước của nhân dân. Di
tích là một trong những nguồn tài liệu quý về giai đoạn lịch sử này, cần được bảo
tồn, phát huy. Với những giá trị này, Di tích miếu Đoài được xếp hạng Quốc gia
năm 1994 (tại Quyết định số 152/QĐ/BT ngày 25/01/1994 của Bộ Văn hóa - Thông
tin).