Lương Thị Mái sinh ngày 1 tháng 1 năm 1941 tại thôn Lương Xâm, xã Nam Hải, huyện Hải An (nay là phường Nam Hải, quận Hải An), thành phố Hải Phòng.
Sinh ra và lớn lên trong gia đình nông dân có tám người con. Hai người anh và em của bà đã hy sinh trong kháng chiến. Là con gái duy nhất trong gia đình, Lương Thị Mái rất chăm chỉ làm việc phụ giúp bố mẹ, chăm sóc các em.
Thời thanh niên sôi nổi, vừa làm việc đồng áng bà vừa tích cực tham gia lớp bình dân học vụ và hoạt động đoàn thể tại địa phương; hăng hái đi đầu trong sản xuất, luôn suy nghĩ, học hỏi cách làm hay trong trồng trọt, chăn nuôi, nhằm tăng năng suất, sản lượng cho cây trồng và vật nuôi tại hợp tác xã Nam Hòa, sau là hợp tác xã Đông Phong, rồi sáp nhập với hợp tác xã Nam Phong thành hợp tác xã Nam Hải. Năm 1962, bà được kết nạp vào Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam rồi làm Phân đoàn trưởng ở tổ sản xuất nông nghiệp.
Năm 1963, hợp tác xã Đông Phong, xã Nam Hải hai lần chăn nuôi lợn tập thể đều thua lỗ. Trong hợp tác xã đã có ý kiến bỏ chăn nuôi tập thể cho đỡ tốn công, tốn của. Chi bộ đã tổ chức nhiều cuộc bàn bạc về vấn đề này. Cuối cùng, Ban chủ nhiệm hợp tác xã dũng cảm, không sợ khó khăn gian khổ vẫn tiếp tục quyết định chăn nuôi tập thể. Bà được Ban chủ nhiệm tin tưởng phụ trách trại chăn nuôi. Cuối năm 1963, bà làm Đội phó trại chăn nuôi đồng thời làm Đội trưởng dân quân, Phân đoàn trưởng trại chăn nuôi xã Nam Hải. Khi nhận bàn giao, nhìn đàn lợn èo uột, thiếu sức sống, bà Mái lo lắng vô cùng.
Trước những khó khăn, thử thách bà bắt tay vào công việc, động viên chị em trong tổ chăm sóc đàn lợn từ chế độ ăn đến vệ sinh chuồng trại, kết hợp kinh nghiệm chăn nuôi từ nhân dân, những người nuôi lợn giỏi tại địa phương. Không phụ lòng người con gái can đảm, đàn lợn của trại chăn nuôi đã lớn nhanh. Trại chăn nuôi bắt đầu có lãi, dần phát triển mạnh. Từ chỗ chỉ có vài người, trại chăn nuôi của bà đã lên tới 40 người chăn nuôi từ 500 đến 700 con lợn. Để tiết kiệm chi phí, bà có sáng kiến dùng bếp trấu nấu thức ăn cho lợn thay cho bếp than. Sáng kiến này mới chỉ dừng lại ở điểm tiết kiệm chi phí cho trại nhưng vẫn chưa giảm được sức lao động. Chị em vẫn phải dậy sớm đến nhà máy xay lấy trấu về đun và phải mất nhân lực băm khoảng trên dưới một tấn rau cho lợn mỗi ngày.
Để đảm bảo đàn lợn của trại chăn nuôi ngày càng béo tốt mà vẫn tiếp kiệm được cho tập thể, bà đã cùng một số chị em học cách ủ men cám cho lợn ăn sống. Sáng kiến này đã làm giảm hẳn chất đốt, bớt một lao động băm rau hàng ngày. Cũng lúc đó, bà chỉ đạo chị em tận dụng mọi nguồn rau khoai, chế biến và bảo quản chu đáo để chủ động khâu thức ăn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đàn lợn. Trại đã chế biến được 20 tạ rau và bột khô. Mỗi đội sản xuất, ngoài chia rau khoai tươi cho đầu lợn của hộ xã viên và dành cho cơ sở chăn nuôi tập thể của đội, còn đem đến cho trại chăn nuôi tập thể của hợp tác xã dưới 20 tạ rau và bột khô. Như vậy, trại chăn nuôi trung tâm hợp tác xã Đông Phong đã có 12 tấn lương khô tích trữ cho đàn lợn. Các loại thức ăn khô được phơi kỹ, đóng bao, quây cót để nơi cao ráo, nên không bị mốc và có thể để được đến vụ thu hoạch rau sau. Với sáng kiến đó, nguồn thức ăn của trại lợn phong phú. Đàn lợn luôn được ăn no đủ cả về lượng và chất. Tốc độ lớn bình quân mỗi tháng đạt 5-6 kg hơi/tháng. Trại chăn nuôi có lãi, mỗi năm cung cấp cho Nhà nước 5-6 tấn thịt. Hợp tác xã nông nghiệp được cung cấp hàng trăm tấn phân cho trồng trọt. Nhờ vậy đã vượt chỉ tiêu 5 tấn thóc/ha. Năm 1967, hợp tác xã Đông Phong là đơn vị điển hình toàn thành phố về chăn nuôi lợn. Sáng kiến của bà Lương Thị Mái được phổ biến toàn miền Bắc, góp phần thúc đẩy phong trào chăn nuôi lợn tập thể và gia đình khá mạnh trong những năm 60 của thế kỷ XX.
Những tấm gương chiến đấu dũng cảm của các chiến sĩ Tạ Thị Kiều, Út Tịch đã khích lệ bà rất nhiều trong lao động sản xuất. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các phong trào “Ba đảm đang” trong hội phụ nữ phát triển sôi nổi đã cổ vũ bà mạnh dạn tham gia tìm hiểu khoa học, kỹ thuật về chăn nuôi. Từ một xã viên hợp tác xã, bà không ngừng học tập văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ về chăn nuôi, trở thành cán bộ thú y của huyện An Hải. Bà luôn dành hết tâm huyết phát triển chăn nuôi của địa phương.
Nhờ những cố gắng phấn đấu trong lao động và rèn luyện, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3 tháng 8 năm 1964 và được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ xã Nam Hải. Với những sáng kiến, đóng góp đó, bà được đại diện cho những người con ưu tú của thành phố Hải Phòng dự Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ 4, tại Hà Nội, ngày 6 tháng 1 năm 1967, bà đã vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
|