ĐÌNH
ĐÔNG KHÊ
(Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia)
Đình Đông Khê tọa lạc tại phường Đông Khê, quận Ngô
Quyền, thành phố Hải Phòng. Đình Đông Khê là công trình kiến trúc nghệ thuật nổi
tiếng, mang đậm dấu ấn lịch sử, bản sắc và
văn hóa của thành phố Cảng.
Tên gọi "Đông Khê" đã tồn tại từ xa xưa,
ban đầu là tên một làng xã thuộc tổng Đông Khê, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, xứ
Hải Dương. Địa bàn này xưa kia là vùng đất ven biển, được bồi tụ bởi phù sa
Sông Cấm, ban đầu là đầm lầy. Con người từ nhiều nơi đã đến đây khai hoang, lập
ấp, tạo dựng nên một vùng quê trù phú. Làng Đông Khê xưa là một làng xã lớn, có
vị trí quan trọng, từng đứng đầu tổng Đông Khê. Tổng Đông Khê bao gồm các xã
Đông Khê, Hàng Kênh, Dư Hàng, An Biên, Phụng Pháp và sau này có thêm Nam Pháp,
An Đà. Từ năm 1987, xã Đông Khê được chuyển thành phường Đông Khê thuộc quận
Ngô Quyền.
Đình Đông Khê là nơi tôn thờ chính đức Ngô Vương
Quyền - vị vua đã có công lớn trong việc đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng
năm 938, mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc. Theo thần tích và các tư liệu còn
lưu giữ tại đình, Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (897) tại Đường
Lâm (nay thuộc Hà Tây). Ông là người khôi ngô, có trí dũng, sức mạnh phi thường.
Ông từng theo Dương Đình Nghệ, được gả con gái và giao cai quản Ái Châu (Thanh
Hóa). Năm 937, khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại và cầu cứu nhà
Nam Hán, Ngô Quyền đã tập hợp lực lượng, diệt trừ Kiều Công Tiễn. Trước nguy cơ
xâm lược của quân Nam Hán do Hoằng Tháo chỉ huy, Ngô Quyền đã khéo léo lợi dụng
địa thế sông Bạch Đằng, cho đóng cọc gỗ bịt sắt dưới lòng sông. Khi thủy triều
lên, ông nhử thuyền địch vào bãi cọc, đợi thủy triều xuống thì phản công quyết
liệt, tiêu diệt phần lớn quân giặc, giết chết Hoằng Tháo vào tháng 12 năm 938.
Ngôi đình hiện tại (còn gọi là đình Tây) được xây dựng
vào năm Minh Mạng thứ 17 (1836) do quan án Nguyễn Thế Nho chủ trì. Trước đó,
làng Đông Khê có đình Đông cổ hơn nhưng nay
không còn. Khoảng cuối thế kỷ XIX, phần do làng xã ngày càng rộng lớn, phần do
mâu thuẫn nội bộ nhân dân, 3 giáp phía Tây tách
ra dựng đình riêng thành đình Tây. Khi đình Đông bị dỡ bỏ, đình Tây trở thành
đình chung của cả làng và được gọi là đình Đông Khê. Đình Đông Khê nằm kề trục
đường chính của phường, cách chùa Nguyệt Quang (chùa Đông Khê) khoảng 500 mét,
tạo thành cụm di tích lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tiêu biểu của quận Ngô Quyền.
Tương truyền, khu Vườn Quyền tại Đông Khê chính là
nơi Ngô Quyền yết bảng chiêu mộ hiền tài và luyện tập quân sĩ chuẩn bị cho trận
Bạch Đằng. Dân làng Đông Khê đã tích cực giúp đỡ Ngô Quyền trong trận chiến lịch
sử này. Sau khi Ngô Quyền qua đời (năm 944), nhân dân địa phương đã suy tôn ông
làm Thành hoàng làng và thờ phụng tại đình.
Đình Đông Khê hiện nay đã trải qua các đợt trùng tu lớn vào năm 1902
(Thành Thái Giáp Thìn) và năm 1932 (Bảo Đại thất niên). Gần đây, vào cuối thập
niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, đình tiếp tục được Nhân dân đóng góp
tu sửa, tôn tạo.
Đình có bố cục mặt bằng hình chữ đinh (J) truyền thống, bao gồm 7 gian
tiền đường và 3 gian hậu cung.
- Tiền đường: Rộng 10m, dài 27m. Khung chịu lực làm bằng gỗ lim
đồ sộ, gồm 6 bộ vì giữa và 2 bộ vì đốc hồi. Mỗi vì kèo có 4 hàng chân cột (2
cột cái, 2 cột con) kê trên các chân tảng đá. Các vì kèo có kết cấu kiểu
"chồng rường con nhị". Đầu dư dưới bụng câu đầu chạm hình rồng tinh
xảo. Mái đình xoè rộng, kiểu "mái đao tầu thực" với bốn góc đao cong
vút. Bờ nóc đắp hổ phù đội mặt nguyệt, bờ dải đắp thủy quái Ma-Ka-Ra, góc mái
đắp nghê chầu. Trước đây đình có hệ thống cửa gỗ "bức bàn cánh bướm".
- Hậu cung: Là 3 gian nối tiếp phía sau tiền đường, có chiều
rộng bằng gian giữa và một phần hai gian bên của tiền đường. Kết cấu vì kèo
tương tự tiền đường nhưng các con chồng có hình khung giá chiêng mảnh mai hơn.
- Cảnh quan: Trước đình là sân hẹp và cổng ngũ môn gồm cổng giữa
kiểu tam quan với hai cột đồng trụ cao lớn, đỉnh đắp kim nghê, hai cổng bên
kiểu nhất môn hai tầng tám mái.
Trang trí trên kiến trúc đình Đông Khê không quá dày đặc nhưng tinh tế,
tập trung ở các bộ phận chính:
- Khu vực cốn (hai vì kèo giữa): Chạm nổi đề tài "thất
long" (bảy rồng) và "tam long" (ba rồng) với các hình rồng ở
nhiều tư thế sinh động, bờm tóc là các cụm đao lửa, thân phủ đao mác lớn. Có cả
hình chim phượng múa bên cạnh rồng.
- Bẩy hiên: Chạm nổi đề tài "cúc hóa long".
- Đầu dư: Chạm hình rồng lớn, thân phủ ria hình đao mác kiểu thế
kỷ 17-18.
- Cửa hậu cung: Mặt ngoài chạm nổi, sơn thếp các đề tài lưỡng
long triều nguyệt, phượng múa, thuyền rồng.
Nhiều họa tiết trang trí rồng, phượng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ
XVII-XVIII, có thể do người thợ lấy mẫu từ ngôi đình Đông cũ. Điều này làm cho
đình Đông Khê (dựng năm 1836) trở thành cầu nối quan trọng để tìm hiểu nghệ
thuật giai đoạn Lê - Nguyễn.
Đình Đông Khê lưu giữ nhiều di vật, cổ vật có giá trị lịch sử và nghệ
thuật, phần lớn mang phong cách thời Nguyễn (thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX):
1. Tượng Ngô Quyền: Tượng thờ chính, thể hiện Ngô Quyền trong tư
thế ngồi trên ngai, mặc long bào, đội mũ cánh chuồn, thần thái uy nghiêm. Niên
đại thế kỷ XIX.
2. Sắc phong: 8 đạo sắc của các vua triều Nguyễn và Lê Trung
Hưng (Chiêu Thống, Quang Trung, Gia Long, Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Duy
Tân, Khải Định) phong cho Ngô Quyền.
3. Bia đá:
- Bia "Bản tổng từ vũ bị ký": Niên đại Cảnh Hưng (1740), ghi
tên các ông nghè của tổng Đông Khê.
- 2 bia "Tây đình lập bi hý" (bia hậu thần): Dựng năm Bảo Đại
thứ 7 (1932), ghi công đức những người tu bổ đình.
4. Đồ thờ tự:
- Long ngai và bài vị lớn: 1 bộ, thế kỷ XX.
- Long ngai nhỏ: 2 chiếc, thế kỷ XIX.
- Nhang án tiền: 1 chiếc, thế kỷ XIX, chạm tứ linh, hổ phù.
- Kiệu bát cống: 1 cỗ, thế kỷ XIX.
- Bát bửu: 2 bộ, thế kỷ XIX.
- Quán tẩy: 1 đôi, thế kỷ XIX, tạo dáng trúc hóa long, chạm tứ linh.
5. Câu đối, hoành phi:
- Câu đối lòng máng: 1 đôi, thế kỷ XIX.
- Câu đối phẳng: 4 đôi.
- Hoành phi "Túc thanh tao": Tương truyền do Cao Bá Quát đề
tặng.
- Cuốn thư "Phúc, Lộc, Thọ".
Hội đình Đông Khê về cơ bản giống với các làng xã khác ở vùng ven đô
Hải Phòng cùng thờ Ngô Quyền. Hội mở từ ngày 9 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch hàng
năm. Ngoài nghi thức tế lễ, rước sách, hát nhả tơ, đánh cờ…, còn tổ chức thi
đấu vật với sự tham gia của các đô vật trong tổng, huyện.
Ngày 20 tháng 12 năm 1997, Bộ Văn hóa - Thông tin
ra Quyết định số 3951-QĐ/BVHTT công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc
gia đối với Đình Đông Khê.