CHÙA XUÂN ÚC
(Di tích lịch sử văn
hóa cấp thành phố)
-----
Chùa Xuân Úc có
tên chữ là Phong Quang tự. Chùa là nơi thờ Phật do nhân dân làng Xuân Úc đóng
góp công sức xây dựng. Chùa Xuân Úc tọa lạc trên nền đất của làng Xuân Đô Trang
cổ nằm ở lưu vực sông Văn Úc, sau phát triển đổi thành hai làng Xuân Úc và Kỳ
Úc, nay là xã Bắc Hưng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.
Chùa Phong
Quang (Chùa Xuân Úc) được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1590, niên hiệu Hưng trị
Mạc Mậu Hợp (1562 – 1592) gồm 5 gian nhà gỗ, hướng Nam, lợp cói đã được trùng tu vào năm 2007. Trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa từng là nơi chứa lương thực cho bộ đội và du
kích”. Chùa Xuân Úc nằm ở trung tâm xã, bên đầm Cửa Phủ vốn là vết tích của con
lạch thoát triều xưa. Chùa Phong Quang cùng với Phủ Tập Thiên và đền Hưng Linh
tạo thành quần thể di tích cổ kính trên vùng đất sa bồi nơi cửa biển. Các di
tích ở đây bổ sung và tô điểm cho nhau, dường như không thể tách rời. Cụm di
tích nằm trên một khuôn viên đẹp, cao ráo, phía trước là đầm nước rộng được coi
là điểm tụ thủy tích phúc cho thế đất, mực nước lên xuống theo nhịp hải hà. Đằng
sau là xóm thôn trù mật, đường làng rải nhựa dài tít tắp, xóm ngõ lát gạch phẳng
phiu, nhà cửa san sát, mái ngói nhấp nhô, rêu phong cổ kính.
Trong tổng thể các di tích đó, chùa Xuân Úc nổi lên là một điểm kiến trúc
khép kín trong khuôn viên hình chữ nhật. Chùa quay hướng Tây như muốn dõi về
tây phương cực lạc – thế giới nằm trong quyền năng cai quản của Phật A-DI-ĐÀ. Cổng
chùa xây theo kiểu hai tầng 8 mái, mái lợp ngói vẩy rồng, đao cong hình lá cúc,
đỉnh bờ nóc đắp bình cam lồ bằng xi măng gắn mảnh sành sứ. Đây là cổng mới dựng trong những năm gần đây để thay thế
cho tam quan đồ sộ bị bom Pháp phá hủy hồi kháng chiến 9 năm. Cổng có dáng bần,
thấp chưa đáp ứng được đầy đủ cho nhu cầu thẩm mỹ của một công trình kiến trúc
nghệ thuật cổ, song vẫn đảm bảo phù hợp với cảnh quan của ngôi chùa, nơi thờ Phật.
Sân chùa nhỏ hẹp, lát gạch giếng đáy vuông xen lẫn
gạch về thời Lê. Tòa điện Phật hình chữ đinh đơn giản gồm 5 gian tiền đường và
3 gian hậu cung xây theo kiểu tường hồi bít đốc chắc khoẻ, mái lợp ngói mũi nhỏ,
ngắn và dốc. Bơ nóc đắp bằng vôi vữa, để trơn không trang trí gì. Tòa tiền
đường, các vì kèo có cấu trúc tương tự nhau theo lối “chồng rường - giá chiêng”;
tòa hậu cung các vì kèo kiểu “kéo suốt trụ chống” hết sức đơn giản. Vườn tháp
quy hoạch vuông vắn, chung quanh xây tường lửng cao khoảng 60cm, trổ hàng con
tiện bằng sành sứ. Bốn góc là 4 ngôi mộ tháp xây bằng gạch, cao 3 tầng, nơi bảo
quản xá lỵ của các vị tăng ni đã từng trụ trì, hoàng dương Phật pháp tại chùa.
Trung tâm là tượng Phật bà Quan âm bằng xi măng trắng đứng trên bệ hình lục
giác 9 tầng, cao khoảng 4m. Tiếp nối khu vườn tháp là tòa nhà Tổ 4 gian xây
theo kiểu tường hồi bít đốc, lợp ngói mũi nhỏ…
Chùa Xuân Úc có quy mô vừa phải, không những có kiến trúc đẹp mà còn được rất
nổi tiếng vì có nhiều pho tượng qúy, là những tác phẩm nghệ thuật trải dài từ
thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. Những di vật còn
được lưu giữ tại chùa, bao gồm:
(1). Bộ tượng
tam thế: Gồm 3 pho tượng giống hệt nhau, tên gọi đầy đủ là “Thường trụ Tam thế
diệu pháp thân”. Có kích thước: cao 63 cm (tượng cao 55 cm, đài sen cao
8 cm), ngang vai rộng 25 cm ngang gối 38 cm, ngang hông 25 cm. Tượng mang phong
cách nghệ thuật thế kỷ XVIII.
(2). Bộ tượng
Di Đà Tam Tôn: Gồm 3 pho, pho ngồi giữa là Phật A-Di-Đà và hai pho bên giống hệt
nhau trong tư thế đứng là tượng Quan Thế âm Bồ Tát và Đại Thế chí Bồ Tát.
- Tượng Phật
A-Di-Đà có kích thước: Cao 112 cm (tượng cao 95 cm, đài sen cao 17 cm), ngang
vai 46 cm, ngang gối 70 cm, ngang hông 46 cm. Niên đại: Tượng mang phong cách
nghệ thuật cuối thế kỷ XVII.
- Tượng
Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát mang tư cách là trợ thủ đắc lực của Đức Phật
Di Đà, có kích thước: Cao 105 cm, ngang vai 34 cm. Niên đại cuối thế kỷ XVII.
(3). Tượng
Ngọc Hoàng và Nam Tào Bắc Đẩu: Kích thước cao 94 cm, ngang vai 36 cm,
ngang gối 40 cm, ngang hông 36 cm. Niên đại đầu thế kỷ XX.
(4). Tượng
Cửu Long và Thích Ca sơ sinh mang phong cách nghệ thuật đầu thế kỷ XX. Ngự trên tòa Cửu
Long có 23 pho tượng các Chư Phật, Chư Bồ Tát và Kim Cương đại diện cho thế giới
nhà Phật ở ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
(5). Tượng
Quan Âm Tống Tử: Cao 80 cm, ngang vai 27 cm, ngang gối 34 cm, ngang hông 27 cm.
Niên đại: Phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII.
(6). Tượng
Thánh Tăng: Cao 80 cm, ngang vai 35 cm, ngang 40 cm, ngang hông 35
cm. Niên đại: phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII.
(7). Tượng
Đức Ông: Tượng to xấp xỉ người thực, mang hình bóng của ông quan
đương thời. Tượng cao 110 m, niên đại đầu thế kỷ XX.
(8). Chuông
đồng: 1 chiếc, niên đại vào năm Quý mão, niên hiệu thiệu trị thứ 3
(1848); cao 102 cm; đường kính miệng 48 cm, chu vi lớn nhất 120 cm.
(9). Bia
đá: 02 bia đá mang tên “Trùng tu Phong Quang tự bi” (thước cao 143 cm, rộng 68
cm) và “Phong Quang tự bi ký” (cao 80 cm, dài 210 cm, rộng 80 cm).
(10). Tượng
Tổ: 01 pho, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhà thờ Tổ của chùa bị
bom giặc phá hủy, toàn bộ tượng pháp, đô thờ quý bị cháy, chỉ còn lại 1 pho tượng
tổ này. Tượng mang dáng dấp của một vị tăng sự, đầu trọc, về mật dậm nết chân
dung, nhân tư và thông thái. Tượng cao 60 cm, niên đại đầu thế kỷ XX.
Tại Chùa
Xuân Úc còn bảo tồn được những tấm bia đá thời Lê – Mạc là nguồn sử liệu văn tự
quý, góp phần nghiên cứu về lịch sử vùng đất cửa biển miền Đông Bắc tổ quốc,
cũng như lịch sử phát triển của đạo Phật Việt Nam. Chùa còn là một di tích cách
mạng và kháng chiến, là cơ sở sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng, trở thành sợ dây
cố kết cộng đồng, chấn hưng nền văn hóa dân tộc, tiêu biểu cho bằng chứng sinh
động về truyền thống “Tiên Lãng phá càn” đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư khen ngợi.
Ngày 28/01/2005, Ủy ban
nhân dân thành phố ra quyết định số 177/QĐ-UB công nhận Chùa Xuân Úc là Di tích
lịch sử văn hóa cấp thành phố.