Bùi Viện người làng Trình Phố, huyện Trực Ninh, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định, nay thuộc xã An Ninh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Xuất thân trong một gia đình nho học, ông và em trai là Bùi Phủng đều nối nghiệp nhà, nhưng lận đận trường ốc, mãi đến năm Tự Đức 21 (1868) Bùi Viện mới đỗ Cử nhân, nhưng vào Huế dự thi Hội không trúng. Ông ở lại học Quốc Tử Giám và giúp việc cho quan Tham tri Lê Tuấn. Tháng 5-1871, Lê Tuấn đang giữ chức Thượng thư bộ Hình thì vua Tự Đức làm khâm phái thị sư ra kiểm tra công việc đánh dẹp ở Bắc Kỳ đem theo Bùi Viện – lúc ấy chỉ là môn khách của ông. Xong công việc, Bùi Viện theo Lê Tuấn trở lại Huế, ít lâu sau, được Doanh điền sứ tỉnh Nam Định là Doãn Khuê mời về giúp việc khẩn hoang lập ấp ở tỉnh này. Sau đó, lại giúp Phạm Phú Thứ, tổng đốc Hải-Yên (Hải Dương-Yên Quảng) trong việc bố phòng ven biển Hải Dương. Với số lính được giao 200 người cùng lương thực, tiền bạc, Bùi Viện đã xây dựng được một số cơ sở ban đầu của bến Ninh Hải, tiền thân của Cảng Hải Phòng bây giờ. Do yêu cầu đánh dẹp, sau 10 tháng chỉ huy xây dựng Ninh Hải, Bùi Viện phải bàn giao việc này cho người khác, để theo giúp Phạm Phú Thứ việc quân sự.
Sau đó, Bùi Viện được triều đình giao việc lập Nha tuần tải lo việc vận chuyển và giữ gìn an ninh trên biển. Ông đã lập đội tàu, chiêu mộ đào tạo nhiều thủy thủ, lập nhiều thương điếm…
Năm 1873, trước khi vua Tự Đức buộc phải ký Hòa ước Giáp Tuất (ngày 15/3/1874), nhượng bộ nhiều yêu sách của thực dân Pháp và nguy cơ mất cả nước đã nhãn tiền, triều đình chủ trương tìm kiếm những đối trọng khác ở nước ngoài để chấn hưng đất nước và cứu vãn họa xâm lăng của thực dân Pháp. Bùi Viện đã lãnh nhận sứ mạng sang Mỹ do sự tiến cử của một viên đại thần trong triều với Vua Tự Đức. Bùi Viện lúc đó đang được xem như là một nhà kinh bang tế thế, có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, lập ra Tuần Dương quân (lực lượng hải quân thường trực) gồm 200 chiến thuyền, 2.000 quân thủy thiện chiến và lập ra hệ thống thương điếm ở các tỉnh ven biển Bắc Kỳ. Tuy nhiên, sứ mệnh sang Mỹ tìm đồng minh giao hiếu không gặp thời nên sau hai lần xuất dương sang Mỹ, Bùi Viện đã không thành công. Trở về nước, sau ba tháng chịu tang mẹ, Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức Thương chánh tham biện rồi chuyển sang chức Chánh quản đốc nha Tuần hải.
Rất tiếc, giữa lúc tài năng đang phát triển, đất nước đang cần nhân tài, nói đi đôi với làm như ông thì Bùi Viện mất tại Huế ngày 2 tháng 11 năm Mậu dần (1878).
|