DI TÍCH ĐỀN - CHÙA LƯƠNG KỆ
(Di tích Lịch sử cấp thành phố)
Cụm công trình đền chùa Lương Kệ (tên trước còn gọi là Lương Đường), thuộc xã Hòa Bình, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Trước năm 1945 là làng Lương Kệ, tổng Thủy Tú, huyện Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An. Ở địa phương có thuyết cho rằng trước 1813 địa danh Lương Đường vẫn được dùng trước tên Lương Kệ bây giờ, do phạm húy nên triều đình Nguyễn bắt đổi thành Lương Kệ như hiện nay. Như vậy, đền, chùa Lương Đường trước kia nay là Lương Kệ. Đền, chùa Lương Kệ, xã Hòa Bình được xây dựng giữa cánh đồng rộng, ven chân núi Sơn Đào, tạo thế tay ngai – tay hổ. Bố cục thờ tự theo lối: tiền Thánh – hậu Phật.
Ngôi đền Lương Kệ bố cục mặt bằng hình chữ đinh, gồm 3 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Nhiều bộ phận chủ yếu trong bộ khung chịu lực được làm bằng bê tông giả gỗ rất khéo léo. Mặt tiền của đền và chùa đều được xây đắp cột trụ nóc kiểu đèn lồng vuông vức, tạo cảm giác khỏe, bề thế cho công trình kiến trúc chính. Đền Lương Kệ, xã Hòa Bình thờ vị thần hoàng Phạm Viết Nghiêm, hiệu duệ Trung Hoa, sinh ngày 10/4, hóa ngày 16/3 (không rõ năm). Theo sự tích, anh em vị thần hoàng có công phù giúp nhà Tiền Lê (Lê Đại Hành) đánh giặc Ai Lao và Chiêm Thành ở sông Bạch Đằng năm 981. Người anh cả tên Phạm Quang, giữ chức đại tướng quân, người em thứ ba Phạm Huấn giữ chức Sơn Nam thái thú và người em thứ tư là bà Phạm Cúc Nương. Trước năm 1938, làng Thường Sơn còn thờ Sơn Nam và bà Cúc Nương; làng Thủy Tú thờ đại tướng quân Phạm Quang. Vị Phạm Nghiêm được thờ tại đền Lương Kệ bằng bài vị; cùng được thờ ở Chiếm Phương, thuộc tổng Thủy Tú. Hai làng từ trước vẫn có giao hiếu.
Di tích Lương Kệ còn bảo tồn được một số đồ thờ tự như:
1. Long Khám, tượng vị Thành hoàng
2. Long đình, bát biểu, nhang án tiền, rùa – hạc – đỉnh đồng
3. 5 bản sắc phong đời Nguyễn từ đời Tự Đức đến Khải Định cùng các pho tượng phật, mẫu, thánh hiện đang thời tại khu di tích.
Chùa Lương Kệ còn có tên nôm là chùa Tranh và tên chữ là Linh Quang tự. Chùa Tranh trước đây có khuôn viên rộng, có cây thạch đài trụ, nhiều ngôi tháp đá, chứng tỏ chùa có thể được kiến tạo từ thời Hậu Lê (thế kỷ XVII) hoặc xa hơn nữa. Chùa ở gần khu vực núi cao, rộng lớn nên trong thời kỳ chống Pháp, đã có nhiều cán bộ lãnh đạo như đồng chí Trần Đông (nguyên Thứ trưởng Bộ Công an), đồng chí Nguyễn Thanh Tân… đã về đây hoạt động, chỉ đạo phong trào kháng chiến. Chùa ngày đó có ba hầm bí mật và một hầm khác nằm ở chân núi gần chùa để che giấu, bảo vệ cán bộ kháng chiến. Do thời gian và sự tàn phá của chiến tranh, cùng với một thời nhận thức quá tả nên năm 1969 chùa bị dỡ bỏ, lấy vật liệu làm các công trình công cộng. Đến năm 1996 ngôi chùa được phục dựng như ngày nay.
Nhà Phật điện là công trình chính và là trung tâm của chùa, được xây dựng trên nền đất chùa xưa. Chùa nhìn về hướng Đông Nam, kiến trúc chữ đinh, xây kiểu đầu hồi bít đốc, tay ngai. Phía ngoài tay ngai là trụ có chân đế quả bồng, đỉnh trụ là đèn lồng và trên đèn lồng là bình nước cam lồ. Phật điện gồm 3 gian tiền đường và 2 gian hậu cung. Trong hậu cung được xây các lớp bục để đặt tượng thờ. Bên cạnh chùa về phía Bắc là nhà thờ tổ, nằm theo hình thước thợ, cùng chung sân với phật điện. Nhà tổ nhìn về hướng nam, được xây kiểu đầu hồi bít đốc, trụ đấu, gồm 4 gian mái lợp ngói tây, phía trước mái có riềm mái làm bằng gỗ hình sin; có ngăn 1 gian riêng làm nhà tăng ở. Toàn bộ hệ thống cột nhà tổ được nâng cao bằng cách kẻ trên các chân tảng quả bồng cao tới 45 cm. Đối diện với nhà thờ tổ qua sân chùa là nhà thờ mẫu, gồm 3 gian lợp ngói tây, phía trước có riềm mái hình sóng bằng gỗ. Nhà được xây kiểu đầu hồi bít đốc, trụ đấu, tay ngai. Trụ ngoài của tay ngai đế làm kiểu trụ bồng, đỉnh trụ xây hình đèn lồng, trên đèn lồng đắp búp sen. Nhà mẫu bố trí 2 hệ thống cửa theo 2 hướng. Một ra sân chùa và một ra phía trước qua đầu hồi phía đông. Nhìn chung, toàn bộ công trình xây dựng của chùa tuy mới được làm, song hình dáng và kiểu cách cơ bản vẫn mang theo tính truyền thống, bản sắc riêng của văn hóa Việt Nam.
Các di vật đáng quan tâm: Long khám, tượng vị thành hoàng, long đình, bát biểu, nhang án tiền, rùa, hạc, đỉnh đồng và 5 băn sắc phong đời Nguyễn từ Tự Đức đến Khải Định cùng các pho tượng Phật, Mẫu, thánh…
Đền Lương Kệ là một di tích lịch sử quý về chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 2 (năm 981). Chùa Linh Quang là di tích về tôn giáo, tín ngưỡng cổ truyền của Nhân dân địa phương, nơi bảo tồn và phát huy tác dụng bản sắc văn hóa trong cộng đồng dân cư, xây dựng khối đoàn kết cùng xây dựng quê hương.
Dựa vào những giá trị văn hóa cũng như lịch sử tại chùa, Ủy ban Nhân dân thành phố đã ra quyết định công nhận đền – chùa Lương Kệ là Di tích Lịch sử cấp thành phố (Quyết định số 177/QĐ-UBND ngày 28/1/2005).