ĐÌNH -
CHÙA TÚ ĐÔI
(Di
tích Lịch sử Văn hóa cấp thành phố)
Đình –
Chùa Tú Đôi xã Kiến Quốc, huyện Kiến Thụy thành phố Hải Phòng, nằm cách trung
tâm thành phố 22,5 km. Đây là cụm di tích hội tụ văn hóa tín ngưỡng tâm linh -
là cảnh đẹp đáng tự hào của người dân xã Kiến Quốc.
Đình
Tú Đôi thờ 2 vị Thành hoàng: Nam Hải Đại Vương và Ả Vương triều Trần. Nhân vật
thứ nhất, căn cứ vào thần tích, sắc phong được lưu trữ tại Viện Thông tin Khoa
học Xã hội Hà Nội có ghi lại: Vào thời Nguyễn đình làng Tú Đôi thờ vị Nam Hải Đại
Vương, âm phù giúp vua Lê Đại Hành đánh Tống Bình Chiêm. Quân giặc bị đại bại,
vua sai sứ ban sắc phong mỹ tự cho bách thần, ban cho vị thần là Bản cảnh Thành
Hoàng Nam Hải Quản tế đại vương. Tặng phong mỹ tự là Linh quan Hộ Quốc khang
dân, Phù Vạn, Dương Vũ, Dục Thánh, bản cảnh Hùng Uy, đại vương Thượng Đẳng Thần,
các thời đều gia phong mỹ tự, cho phép trang Tú Đôi được phụng thờ. Nhân vật lịch
sử thứ hai là Thái trưởng công chúa tên Thiên Thuỵ - con gái trưởng vua Trần
Thánh Tông, chị gái vua Nhân Tông, có tên huý Trần Quỳnh Nga. Công chúa có dung
nhan tuyệt thế, đủ tài cầm kỳ, thi họa được vua phong Thái trưởng công chúa
Thiên Thuỵ. Đến tuổi cập kê, Vua cha gả cho Hưng Võ Vương Nghiễm, con trai Hưng
Đại Vương. Nhưng từ nhỏ, công chúa đã yêu cảnh thiên nhiên, dốc chí tu hành,
nguyện tròn quả phúc, nên xin với gia đình cho được toại ý. Từ đấy, công chúa
thường đi tu ngoạn nhiều danh lam, thắng tích. Ngày 12/3 năm Quý Thân, công
chúa làm lễ Khánh hạ, xưng đạo hiệu là Thiên Thánh, mở rộng việc khai khẩn đất
hoang, cấp phát ruộng vườn cho nhiều nguồn canh tác. Từ đấy, dân vùng Nghi
Dương no đủ. Tháng giêng năm Ất Dậu (1285) tướng giặc là Ô Mã Nhi đem quân xâm
phạm các xứ Vân Đồn, Vạn Kiếp rồi vào Nghệ An. Thượng Hoàng có ý định gả Công
Chúa cho tướng giặc để làm kế hoãn binh. Nhưng Công Chúa van xin cha cho được
tiếp tục ở chùa thờ phật. Từ đó, công chúa hàng ngày tụng kinh niệm phật thiết
lập đàn tràng, bố thí cho kẻ nghèo khó. Từ đó, người đời thường gọi là bà Chúa
mõ. Ngày 3 tháng 11 năm Mậu Thân, thượng Hoàng Nhân Tông và công chúa cùng hoá
- Thi hài được đưa về chùa Tư Phúc ở kinh sư, lập tháp an táng.
Đình
làng Tú Đôi được hoàn thành việc tu bổ, tôn tạo ngay trên nền đất cũ. Bố cục mặt
bằng của ngôi đình mới tu tạo tuy có sự kết hợp hài hoà giữa nguyên liệu truyền
thống với công nghệ tiên tiến như gỗ, đá, xi măng, sắt, thép... song vẫn tạo
nên một công trình văn hoá tâm linh toạ lạc giữa trung tâm làng xã. Đình có cấu
trúc kiểu chữ đinh, gồm 5 gian bái đường và 2 gian chuôi vồ. Ngoài mái lợp ngói,
rui hoành dùng loại gỗ tứ thiết. Trang trí bò nóc mái được phục chế khá công
phu, cầu kỳ, gồm các khối hình đăng đối hài hoà như vẫn thường thấy tại các
ngôi đình. Toàn bộ kiến trúc toạ lạc trên một diện tích rộng, hướng ra đường
giao thông dẫn tới trụ sở Ủy ban nhân dân xã. Sân hội trước cửa đình được lát
toàn bộ bằng gạch Tiên Hội. Phân cách giữa sân hội của ngôi đình là bộ đôi cột
trụ hình khối chữ nhật. Nóc đình trang trí, đắp vẽ kiểu đèn lồng - phượng đỗ.
Chùa
Tú Đôi toạ lạc trên một diện tích bằng phẳng, có diện tích khoảng 1 mẫu 4 sào 2
thước (bao gồm các công trình kiến trúc, sân vườn, hồ ao...). Chùa có bố cục mặt
bằng kiểu chữ đinh, mặt chính quay hướng Tây. Toà Phật điện có 8 gian, gồm 5
gian tiền và 3 gian ống muống. Kết cấu vì nóc mái kiểu chồng giường giá chiêng.
Chữ đề trên câu đầu ghi lần tu tạo lớn “Năm
Bảo Đại Mậu Thìn" (tức 1926). So với ngôi đình, chùa Tú Đôi còn giữ được
nét kiến trúc thời Nguyễn truyền thống, thể hiện qua cách bố cục bài trí di vật
và đặc biệt còn để lại trên một số tiêu bản trang trí trên kiến trúc mang niên
đại nghệ thuật Nguyễn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Đình
làng thôn Tú Đôi còn lưu giữ được 8 đạo sắc phong thời Lê, thuộc các thời: Lê
Vĩnh Thịnh thứ 9 (1714), Vĩnh Khánh năm thứ 2 (1721), Cảnh Hưng năm thứ 28 (1768),
Cảnh Hưng năm thứ 44 (1788), Chiêu Thống nguyên niên, Quang Trung năm thứ 2
(1790), Cảnh Thịnh nguyên niên (1793) ... Sắc Trần Ả Nương Thiên Thính Quỳnh
Trân. Ngoài ra, còn 6 bản sắc phong thuộc một số vua triều Nguyễn như Tự Đức
năm thứ 10 và 13, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định phong cho Nam Hải Quảng Tề đại
vương, được dân làng Tú Đôi phụng thờ. Cùng các di vật: 01 khám đặt vị tượng
Thành hoàng, 01 nhang án tiền, cửa võng 1 bộ, hoành phi, câu đối cổ cùng một số
đồ vật khác như lộc bình, ống hoa, bát hương men nội do nhân dân mới cúng tiến.
Tại
chùa còn lưu giữ các cổ vật, di vật: Đại tự gỗ 2 bức, cửa võng 4 bức, tứ Linh (Long,
Ly, Quy, Phật). Tại phật điện được bày trí thành các lớp, đàn Phật theo thứ tự
từ cao xuống thấp, từ trong ra ngoài: 3
pho Tam Thế, Bộ Di Đà Tam Tôn, Tượng Quan Âm, Bộ tượng Ngọc Hoàng, Nam Tào - Bắc
Đẩu, Tượng Đức Quan Âm Quá Hải, Tượng Thích Ca sơ sinh, Tượng Khuyến Thiện - Trừng
Ác, Ban thờ tượng Đức Ông, Ban thờ Mẫu… Ngoài ra, tại hai bên hành lang Phật điện
còn có 10 hình các vị tượng trong bộ thập điện linh vương khá độc đáo. Các di vật
khác liên quan đến ngôi chùa gồm có 2 ngôi mộ tháp và 2 chiếc bia đã mờ chữ.
Niên đại của các di vật khác vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Tại
chùa được truyền ngôn ngày giỗ của hai vị Sư Tổ có công xây dựng và trụ trì chùa:
5/10 âm lịch và 13/2 âm lịch. Hội lễ, hội làng vào các ngày 3, 4, 5 tháng Chạp hàng
năm.
Ngày 24 tháng 10 năm 2005, Uỷ ban Nhân dân thành phố ra Quyết định số 2426-QĐ/UBND công nhận Đình – Chùa Tú Đôi là Di tích Lịch
sử Văn hóa cấp thành phố.