MIẾU ĐÔNG
Di tích lịch sử cấp quốc gia
Miếu Đông nằm trên địa
bàn thôn Du Lễ, xã Kiến Quốc, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng, cách trung
tâm thành phố khoảng 14 km. Di tích miếu Đông là nơi tưởng niệm và ghi nhớ công
lao của danh tướng Vũ Hải - người có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Nguyên - Mông ở thế kỷ XIII.
Theo các thần tích để
lại, Vũ Hải là người trang Du Lễ, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, xứ Hải Dương.
Khi giặc Nguyên đem quân sang xâm lược nước ta, triều đình mở khoa thi tuyển chọn
võ tướng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Vũ Hải lên kinh đô ứng
thí và được nhà vua phong cho chức Phó đô Trung lang tướng. Sau đó theo Thái sư
Trần Quang Khải chặn đường tiến của Toa Đô từ Chiêm Thành đánh vào Nghệ An. Do
chiến đấu dũng cảm, ông được phong chức Tả tham nghị và cùng Chiêu Văn vương Trần
Nhật Duật đánh tan quân Nguyên ở sông Nhị Hà. Đặc biệt trong trận Tây Kết, dưới
sự chỉ huy của vua Trần, Vũ Hải đã cùng với các tướng sỹ giết và bắt sống nhiều
quân giặc, chém được đầu Toa Đô, Sau cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên xâm lược
lần hai, Vũ Hải được phong tước Phó đô nghị xử. Đến cuộc kháng chiến lần 3, Vũ
Hải được phong là Bạt Hải Hữu tướng quân và cho đốc suất một đạo quân thủy trấn
giữ một vùng cửa sống trọng yếu. Ông chọn 40 trai tráng ở quê, giỏi nghề bơi lội
bổ sung vào đội quân của mình. Trong đó có Vũ Định là người giúp việc gần gũi
ông trong quân ngũ. Trong chiến trận, dù đã bị thương nhiều lần, ông vẫn anh
dũng chiến đấu và đã hy sinh ở cửa biển Đại Bàng thuộc xã Bàng La (Đồ Sơn) và
thôn Quần Mục (Đại Hợp ngày nay). Tiếc thương vị công thần trung nghĩa, có nhiều
công lao với nước, vua Trần Nhân Tông đã truy phong chức đại tướng quân cho Vũ
Hải, đồng thời sắc cho trang Du Lễ lập miếu thờ ông trên đất cũ của gia đình
ông.
Miếu Đông được xây dựng
trên khu đất phía Đông của thôn Du Lễ, quay hướng Tây Bắc, phía trước là cánh đồng
lúa, kiến trúc theo lối chữ đinh đơn giản gồm 5 gian tiền đường và 1 gian hậu
cung. Tòa tiền đường dài 12m rộng 6m, tòa hậu cung dài 3,2m rộng 4,7m. Phía trước
có 1 sân nhỏ tiếp nối với vườn miếu bao quanh. Mái lợp ngói tây đỏ, bờ nóc đắp
bằng vôi vữa không trang trí. Tường hồi xây bằng gạch theo lối bỏ trụ giật tam
cấp trong vững chắc nhưng lại thiếu vắng sự thanh thoát. Mặt trước mở 3 cửa,
tòa nhà đứng vững trên ba vì kèo gỗ lim và hai tường hồi đốc. Kết cấu của các
vì kèo gỗ tương tự nhau kiểu “giá chiêng chồng rường đấu” quen thuộc. Mỗi mái của
tòa nhà có 9 khoảng hoành, các hoành mái thẳng, bào vuông thành sắc cạnh. Miếu
Đông là một trong những công trình kiến trúc cổ sử dụng ít các hình thức trang
trí kiến trúc ngoài những đồ án hoa lá cách điệu đơn giản ở các rường, đấu là đề
tài hoa lá hóa rồng thể hiện.
Những di vật còn được
lưu giữ tại miếu Đông:
1. Kiệu bát cống: 01
chiếc, về mặt cấu tạo thì tương tự như các kiệu bát cống khác nhưng trang trí
trên kiệu được làm cầu kỳ và độc đáo hiếm có.
2. Long đình: 02 chiếc
3. Y môn: 02 chiếc
4. Đại tự: 02 chiếc
5. Câu đối: 02 đôi
hình lòng máng rộng 0,4m, cao 3,2m
6. Nhang án, bát biểu…Hầu
hết các di vật ở miếu Đông được mang từ đình Du Lễ về, là những tác phẩm nghệ
thuật điêu khắc, trang trí có giá trị nghệ thuật cao. Hiện tại miếu vẫn còn lưu
giữ được một số sắc phong của triều đình phong kiến truy phong cho Vũ Hải đại
vương như: Cảnh Thịnh nguyên niên (1793), Tự Đức tam thập niên (1851), Đồng
Khánh nhị niên (1888), Duy Tân tam niên (1910), Khải Định cửu niên (1924).
Di tích bảo lưu được
một không gian lễ hội cổ truyền phong phú qua nghi lễ tôn vinh, tưởng niệm các
vị anh hùng có công với nước, với làng. Theo quy định, được tổ chức ở đình từ
ngày 4 đến ngày 6 tháng chạp âm lịch hằng năm. Trong lễ hội có lễ mộc dục, rước
bài vị các thánh thờ ở miếu Đông, miếu Đoài về ngôi đình chung của làng. Ngoài
ra, đối với vị thần Vũ Hải, nhân dân Du Lễ còn tổ chức các ngày kỵ lệ như ngày
sinh, ngày mất, thu hút đông đảo nhân dân địa phương đến tham dự.
Di tích hiện trạng được bảo vệ tốt qua những lần tu tạo. Căn cứ vào những
giá trị lịch sử và là một trong số ít công trình kiến trúc cổ được bảo vệ tốt,
miếu Đông đã được Bộ Trưởng Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cấp
quốc gia (Theo Quyết định số 152/QĐ/BT ngày 25/01/1994).