Từ
khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định vai trò lãnh đạo
tuyệt đối và toàn diện đối với cách mạng Việt Nam. Tại Hải Phòng – mảnh đất địa
chiến lược, trung tâm công nghiệp – cảng biển quan trọng của cả nước, Đảng bộ
thành phố không chỉ là hạt nhân lãnh đạo mà còn là lực lượng chính trị trung
tâm, đoàn kết và quy tụ nhân dân trong mọi thời khắc lịch sử.
Trong
tiến trình gần một thế kỷ hình thành và phát triển, Đảng bộ thành phố Hải Phòng
luôn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng, tư duy đổi mới và quan trọng nhất là mối
quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân – yếu tố quyết định mọi thắng lợi
I.
GIAI ĐOẠN (1930–1945): CỘI NGUỒN CÁCH MẠNG
Ngay
sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào tháng 2 năm 1930, các tổ chức
Đảng tại Hải Phòng đã nhanh chóng được hình thành, thể hiện sự tiếp nhận mạnh mẽ
tinh thần cách mạng trên mảnh đất công nghiệp – thương cảng đầy sôi động. Đầu
tháng 4/1929, tổ chức cộng sản đầu tiên ở Hải Phòng được thành lập. Tháng
4/1930, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hải Phòng được thành lập, là một
trong ít những đảng bộ ra đời đầu tiên ở trong nước. (Lịch sử Đảng bộ TP Hải
Phòng tập 1). Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Hải Phòng chính thức ra đời, đánh dấu
bước ngoặt lịch sử trong việc hình thành lực lượng chính trị tiên phong của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động thành phố.
Nhận
thức rõ vai trò và tiềm năng to lớn của phong trào công nhân, Đảng bộ Hải Phòng
đã sớm tập trung lãnh đạo các hoạt động đấu tranh tại các cơ sở trọng yếu như
Nhà máy Xi măng, Nhà máy Cơ khí, xưởng đóng tàu Bason và khu vực cảng biển Hải
Phòng. Từ những phong trào đòi cải thiện điều kiện làm việc, chống áp bức bóc lột,
đến các cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ - vai trò tổ chức và định hướng
của Đảng ngày càng được khẳng định.
Không
chỉ giới hạn trong phong trào công nhân, hoạt động cách mạng tại Hải Phòng còn
lan tỏa sâu rộng trong các tầng lớp xã hội: trí thức, tiểu thương, học sinh-sinh
viên đến nông dân các vùng ngoại thành. Đảng bộ đã biết khéo léo kết hợp giữa
lý luận cách mạng và thực tiễn quần chúng, từng bước xây dựng nên một phong
trào vững chắc, có tổ chức, có mục tiêu rõ ràng và đặc biệt là có được lòng dân
– nền tảng quan trọng để tiến tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Trong
dòng chảy cách mạng ấy, nhiều cán bộ lãnh đạo tiền bối đã thể hiện tinh thần
kiên trung, bất khuất ngay tại Hải Phòng - nơi được coi là một trong những
trung tâm cách mạng lớn của cả nước. Tiêu biểu như đồng chí Nguyễn Đức Cảnh - một
trong những lãnh tụ tiêu biểu của phong trào công nhân và là người sáng lập
Công hội Đỏ đầu tiên, từng về hoạt động tại Hải Phòng, lãnh đạo công nhân Nhà
máy Xi măng và các khu công nghiệp lớn đấu tranh đòi quyền lợi. Nhiều cán bộ
cách mạng ưu tú khác như đồng chí Tô Hiệu…cũng đã có thời kỳ hoạt động, gây dựng
cơ sở cách mạng và trực tiếp chỉ đạo đấu tranh ở Hải Phòng. Những người con ưu
tú ấy đã góp phần xây dựng nên nền móng vững chắc cho phong trào cách mạng tại
địa phương, làm lan tỏa tinh thần yêu nước, hun đúc ý chí đấu tranh vì độc lập
dân tộc trong các tầng lớp nhân dân.
Các
phong trào “đón tiếp Xô viết Nghệ-Tĩnh”, “đón mừng Đảng ra đời”, các cuộc rải
truyền đơn, mít tinh phản đối chính sách bóc lột của thực dân- phong kiến… đã
biến Hải Phòng thành một “điểm nóng cách mạng” trong nhiều thời kỳ. Từ thực tiễn
đó, một lực lượng cán bộ kiên trung, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh đã được rèn
luyện, trở thành hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng những năm sau này, đặc
biệt trong cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 giành chính quyền về tay nhân
dân.
Từ
các phong trào cách mạng ở nội thành đến nông thôn ngoại thành, từ công nhân,
trí thức, tiểu thương đến học sinh, sinh viên- Đảng bộ đã xây dựng được một
phong trào cách mạng có tổ chức, có lý luận và có lòng dân.
II.
GIAI ĐOẠN (1945–1954): TRƯỞNG THÀNH TRONG GIAN KHỔ
Sau
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền cách mạng được thiết lập
ở Hải Phòng trong bối cảnh hết sức khó khăn. Là một trung tâm công nghiệp – cảng
biển trọng yếu của cả nước, Hải Phòng nhanh chóng trở thành mục tiêu chiến lược
mà thực dân Pháp và các thế lực thù địch nhắm đến nhằm tái chiếm và chi phối
vùng đất này. Ngày 23/9/1945, quân Pháp nổ súng ở Nam Bộ. Đến tháng 11/1946,
tình hình tại Hải Phòng diễn biến phức tạp khi quân Pháp đổ bộ trở lại. Ngày
20/11/1946, thực dân Pháp chính thức mở cuộc tấn công đánh chiếm thành phố, bất
chấp sự phản đối của chính quyền Việt Nam. Từ đó, Hải Phòng trở thành vùng tạm
chiếm suốt 8 năm, là một trong những địa bàn bị kìm kẹp chặt chẽ nhất ở miền Bắc.Trong
hoàn cảnh đó, Đảng bộ thành phố Hải Phòng phải chuyển hoạt động vào bí mật, vừa
tổ chức lại lực lượng, vừa lãnh đạo nhân dân kiên cường bám đất, giữ làng, chống
lại mọi âm mưu khủng bố, đàn áp. Đội ngũ cán bộ Đảng viên bám trụ nội thành đã
xây dựng được hệ thống cơ sở cách mạng, tổ chức các phong trào kháng chiến rộng
khắp, đặc biệt trong công nhân, học sinh, trí thức và đồng bào công giáo. Mặc
dù nằm trong vùng địch kiểm soát, nhưng hoạt động cách mạng tại Hải Phòng không
hề suy giảm. Các chi bộ Đảng vẫn kiên cường duy trì hoạt động, mở rộng ảnh hưởng
trong các khu dân cư, chợ, nhà máy, bến cảng… Công tác binh vận, địch vận, vận
động công giáo, tổ chức cơ sở kháng chiến trong nội thành được thực hiện bài bản,
sáng tạo. Phong trào công nhân tại các xí nghiệp như xi măng, cơ khí, tàu thủy…
vẫn âm thầm diễn ra: rải truyền đơn, đình công, đấu tranh đòi cải thiện điều kiện
làm việc, chống bóc lột và đòi dân sinh, dân chủ. Đây là lực lượng nòng cốt của
phong trào đô thị thời kỳ này, luôn gắn bó mật thiết với sự chỉ đạo của Đảng bộ.
Cùng với đó, Đảng bộ chỉ đạo xây dựng các liên lạc viên, tổ chức giao thông
liên lạc, hòm thư bí mật, hình thành nên mạng lưới cơ sở cách mạng trong lòng địch,
kết nối với các khu du kích ngoại thành như An Dương, Kiến Thụy, Vĩnh Bảo…Sự
thành công trong xây dựng cơ sở và duy trì phong trào kháng chiến tại vùng tạm
chiếm không thể tách rời vai trò của nhân dân. Nhân dân nội thành Hải Phòng, từ
tiểu thương, công nhân, nông dân đến trí thức, giáo dân… đều giữ vững lòng
trung thành với cách mạng, sẵn sàng bảo vệ cán bộ, nuôi giấu thương binh, cung
cấp thông tin, lương thực, góp phần quan trọng vào công tác hậu cần, tình báo
và binh vận. Nhiều gia đình trở thành “hầm bí mật sống”, nhiều bà mẹ, người cha
trở thành chiến sĩ vô danh bảo vệ Đảng và phong trào. Trong những trận càn, tảo
thanh, đàn áp của địch, đã có biết bao người con Hải Phòng ngã xuống để bảo vệ
cơ sở cách mạng. Trong thời kỳ này, Đảng bộ Hải Phòng đã thể hiện năng lực tổ
chức và bản lĩnh chính trị vượt trội. Bất chấp bị vây ráp, bắt bớ, tra tấn, hệ
thống tổ chức Đảng từ nội thành đến vùng ven vẫn được duy trì và không ngừng mở
rộng. Hàng trăm cơ sở Đảng bí mật được xây dựng; hàng ngàn quần chúng được giác
ngộ, rèn luyện và kết nạp vào tổ chức cách mạng. Đảng bộ không chỉ lãnh đạo về
mặt tư tưởng và tổ chức, mà còn trực tiếp tổ chức các hoạt động quân sự - chính
trị quan trọng: phá hoại hậu cần địch, tổ chức ám sát mật thám, gây rối trật tự
chính quyền tay sai, và đặc biệt là góp phần hỗ trợ chiến trường lớn thông qua
công tác hậu phương. Những nỗ lực kiên cường của Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng
trong suốt 8 năm kháng chiến đã góp phần bảo vệ lực lượng, xây dựng lòng dân, củng
cố niềm tin cách mạng. Đó chính là tiền đề quan trọng giúp Đảng bộ tổ chức
thành công cuộc tiếp quản thành phố trong hòa bình sau Hiệp định Giơ-ne-vơ. Trong
lòng thành phố bị chiếm đóng, Hải Phòng vẫn là pháo đài chính trị, là điểm tựa
lòng dân của cách mạng Việt Nam, nơi hội tụ sức mạnh kiên cường, bất khuất của
nhân dân, được dẫn dắt bởi một Đảng bộ bản lĩnh, trung kiên.
III.
GIAI ĐOẠN (1954–1955): TIẾP QUẢN HÒA BÌNH – KỲ TÍCH CỦA TRÍ TUỆ VÀ NIỀM TIN
Hiệp
định Giơ-ne-vơ được ký kết tháng 7/1954 tạo điều kiện cho miền Bắc được giải
phóng, nhưng riêng Hải Phòng- với vị thế đặc biệt - là thành phố cuối cùng được
tiếp quản trong hòa bình, kéo dài đến tận tháng 5/1955. Đây là một giai đoạn đặc
biệt quan trọng trong lịch sử Đảng bộ thành phố. Việc tiếp quản Hải Phòng không
hề đơn giản: thành phố vẫn có quân Pháp đồn trú, bộ máy chính quyền tay sai hoạt
động và các thế lực thù địch vẫn tìm cách phá hoại Hiệp định. Trước tình hình
đó, Đảng bộ thành phố đã phát huy tối đa trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần đoàn kết
với nhân dân, xây dựng kế hoạch tiếp quản tỉ mỉ, kiên quyết nhưng mềm dẻo, kết
hợp binh vận- chính trị vận -tranh công khai. Các lực lượng cách mạng, trí thức
yêu nước, công nhân bám trụ được phát huy triệt để để vận động quần chúng, giữ
gìn an ninh trật tự và bảo vệ thành quả chính trị. Ngày 13/5/1955, Hải Phòng
chính thức được tiếp quản- không đổ máu, không xung đột. Đây là một kỳ tích đặc
biệt, thể hiện đỉnh cao của sự lãnh đạo chính trị và mối liên kết vững chắc giữa
Đảng với dân. Tiếp quản thành phố hòa bình là khởi đầu cho công cuộc kiến thiết
chủ nghĩa xã hội ở đô thị trọng điểm phía Bắc, là bước ngoặt thể hiện sức mạnh
của niềm tin nhân dân với Đảng bộ thành phố.

Các
tầng lớp nhân dân Thành phố vui mừng chào đón bộ đội tiếp quản tại quảng trường
Nhà hát Thành phố, ngày 13/5/1955. Ảnh tư liệu.

Bộ
đội tiếp quản Nhà máy xi măng Hải Phòng
IV.
GIAI ĐOẠN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1955–1975): CỦNG CỐ VỊ THẾ, HUY ĐỘNG SỨC
DÂN
Ngay
sau tiếp quản, nhiệm vụ trước mắt của Đảng bộ thành phố là ổn định trật tự xã hội,
khôi phục sản xuất, khắc phục hậu quả chiến tranh và cải thiện đời sống nhân
dân. Với tinh thần khẩn trương, quyết liệt, các cấp ủy đảng đã tổ chức lại hệ
thống chính quyền, vận động nhân dân tham gia xây dựng chính quyền cách mạng vững
mạnh. Những nhà máy quan trọng như Xi măng Hải Phòng, cơ khí Duyên Hải, các xưởng
đóng tàu, kho cảng… được phục hồi và tái sản xuất. Hệ thống trường học, trạm y
tế được khẩn trương dựng lại. Công nhân, trí thức, thanh niên thành phố đã hăng
hái tham gia các phong trào thi đua khôi phục kinh tế, giữ gìn an ninh trật tự,
thực hiện cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng bộ thành phố Hải
Phòng đã phát huy tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo, gắn bó mật thiết với quần
chúng nhân dân, tuyên truyền, vận động, giải thích chính sách, xây dựng tinh thần
đồng thuận trong xã hội để vượt qua khó khăn của thời kỳ quá độ.
Trong
những năm đầu thập niên 1960, Hải Phòng được xác định là một trung tâm công
nghiệp, thương cảng và giao thông huyết mạch của miền Bắc, giữ vai trò đầu mối
tiếp nhận hàng viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa và phân phối cho toàn quốc.
Đảng bộ thành phố đã lãnh đạo xây dựng và phát triển nhiều công trình, cơ sở hạ
tầng công nghiệp trọng điểm: Nhà máy cơ khí Hải Phòng, Nhà máy xi măng, Nhà máy
hóa chất, xưởng tàu Bạch Đằng, Cảng Hải Phòng… Cùng với đó là các khu dân cư
công nhân, nhà trẻ, bệnh viện, trường học được mở rộng để phục vụ người lao động.
Hải Phòng trở thành điểm sáng về phát triển kinh tế công nghiệp, là hình mẫu
trong công cuộc hiện đại hóa nền kinh tế XHCN ở miền Bắc. Các phong trào thi
đua lao động sản xuất, tổ đổi công, hợp tác xã kiểu mới, “ba sẵn sàng”, “năm
xung phong” diễn ra sôi nổi và rộng khắp, với nòng cốt là lực lượng công nhân
và thanh niên thành phố.
Từ
năm 1965, khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, Hải Phòng-với
vị trí là trung tâm kinh tế - quân sự quan trọng - trở thành mục tiêu đánh phá
ác liệt của không quân Mỹ. Cảng Hải Phòng, Ga Lạc Viên, cầu Niệm, Nhà máy Xi
măng, Sở Dầu… liên tục bị ném bom, gây thiệt hại nặng nề. Trong bối cảnh đó, Đảng
bộ thành phố đã lãnh đạo nhân dân kiên cường chiến đấu, vừa sản xuất – vừa chiến
đấu – vừa phục hồi. Các phong trào: “tay búa, tay súng”, “tay cày, tay súng”,
“vừa học, vừa hành quân”, “sơ tán khẩn cấp – giữ vững sản xuất” được triển khai
rộng rãi, phát huy được tinh thần yêu nước và ý chí tự lực tự cường. Hàng chục
ngàn đoàn viên thanh niên, công nhân, dân quân tự vệ của Hải Phòng tình nguyện
chi viện cho chiến trường miền Nam, đóng góp sức người – sức của cho kháng chiến.
Nhiều công trình được xây dựng trong lòng đất để đảm bảo thông tin liên lạc, dự
trữ hàng hóa, duy trì năng lực sản xuất. Cảng Hải Phòng vẫn tiếp tục tiếp nhận
hàng viện trợ quốc tế, với khẩu hiệu “Mạch máu không tắc”, nhờ sự hy sinh, sáng
tạo và kiên cường của các cán bộ, công nhân ngành giao thông, hải quan, bốc xếp.
Trong
suốt thời kỳ 1955–1975, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng
tiếp tục được củng cố sâu sắc. Đảng bộ luôn xác định rõ vai trò trung tâm lãnh
đạo chính trị, nhưng không tách rời khỏi đời sống thực tiễn của quần chúng. Các
chủ trương lớn của Trung ương được triển khai linh hoạt, sát hợp thực tiễn;
phong trào thi đua được xây dựng từ cơ sở; cán bộ, đảng viên “đi dân nhớ, ở dân
thương”, sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân. Chính điều đó giúp Đảng bộ không chỉ
là “người lãnh đạo” mà còn là người bạn đồng hành, người thầy, người chỗ dựa
tin cậy của mọi tầng lớp nhân dân. Tổng kết giai đoạn 1954–1975, có thể khẳng định:
Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn của thời kỳ
hậu chiến, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, đồng thời hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ hậu phương lớn cho tiền tuyến miền Nam. Sự gắn bó máu
thịt với nhân dân chính là điểm tựa để thành phố vượt qua bom đạn, phát triển sản
xuất, bảo vệ tuyến đầu và góp phần vào đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Một
buổi thăm Cảng của các em học sinh sau ngày tiếp quản Hải Phòng.

Nhân
dân Hải Phòng mít tinh mừng chiến thắng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
năm 1975 tại Nhà hát thành phố
VI.
GIAI ĐOẠN 1976 – ĐẾN NAY: ĐỔI MỚI TƯ DUY, KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN, GIỮ VỮNG NIỀM
TIN NHÂN DÂN
Sau
ngày đất nước thống nhất, Hải Phòng bước vào công cuộc hàn gắn hậu quả chiến
tranh, khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế trong bối cảnh cả nước còn nhiều
khó khăn. Đảng bộ thành phố xác định nhiệm vụ trung tâm là ổn định đời sống
nhân dân, khôi phục các ngành công – nông nghiệp, đẩy mạnh lưu thông, xây dựng
kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị. Tuy nhiên, như cả nước, thành phố cũng gặp nhiều
trở ngại do cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hiệu quả sản xuất thấp,
nông nghiệp lâm vào tình trạng trì trệ. Trong bối cảnh đó, Đảng bộ thành phố Hải
Phòng thể hiện tư duy nhạy bén, tiên phong trong đổi mới cơ chế quản lý, đặc biệt
là trong lĩnh vực nông nghiệp.
Năm
1981, khi Ban Bí thư Trung ương ban hành Chỉ thị 100-CT/TW (Khoán 100) về khoán
sản phẩm trong nông nghiệp, Hải Phòng là một trong những địa phương đầu tiên và
sáng tạo nhất trong thực hiện. Các huyện như An Hải, Vĩnh Bảo, Kiến Thụy đã
giao đất, khoán sản lượng cho từng hộ nông dân, khơi dậy động lực sản xuất, làm
“nức lòng” cả nước bởi kết quả vượt trội về năng suất và thu nhập của người
dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ được thể hiện qua việc sát cơ sở, gần dân,
phát hiện thực tiễn mới, bảo vệ những cái đúng dù chưa có tiền lệ, qua đó làm
sáng rõ tư duy “dân chủ trong quản lý kinh tế”.

Nông
dân xã Phù Ninh sử dụng máy tuốt lúa, năm 1981
Ngã
6 thập niên 80
Bước
ngoặt của đất nước năm 1986 – Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam – khởi xướng
công cuộc đổi mới toàn diện, là thời cơ và cũng là thách thức lớn đối với Đảng
bộ Hải Phòng. Với truyền thống năng động, sáng tạo, Đảng bộ đã nhanh chóng chuyển
hướng lãnh đạo phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng
thu hút đầu tư trong và ngoài nước, từng bước cải thiện môi trường kinh doanh.
Hải Phòng là một trong những địa phương đầu tiên thành lập khu công nghiệp tập
trung (Khu công nghiệp Đình Vũ, Tràng Duệ, Nomura), khuyến khích liên doanh,
liên kết, phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu, giao thương quốc tế. Bên
cạnh đó, Đảng bộ chú trọng cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước, phát huy dân chủ cơ sở, chăm lo an sinh xã hội, giải quyết việc làm, xóa
đói giảm nghèo. Thành phố từng bước vượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội
cuối những năm 1980, tạo nền tảng cho bước phát triển nhanh và bền vững trong
những thập niên tiếp theo.
Bước
vào thế kỷ XXI, Hải Phòng xác định mục tiêu phát triển là thành phố cảng biển
hiện đại, trung tâm công nghiệp, dịch vụ và logistics của cả nước. Đảng bộ
thành phố đã lãnh đạo thực hiện nhiều chương trình đột phá: mở rộng Cảng Hải
Phòng, xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, cầu Bạch Đằng, cầu Hoàng Văn
Thụ, đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, sân bay Cát Bi mở rộng…
Chỉ
tính giai đoạn 2016- 2020, Kinh tế thành phố phát triển mạnh mẽ, luôn duy trì tốc
độ tăng trưởng cao, GRDP bình quân 5 năm 2016- 2020 tăng 13,94%/năm, gấp 1,3 lần
mục tiêu Nghị quyết Đại hội XV đề ra (10,5%/năm), gấp 1,97 lần giai đoạn
2011-2015 (7,08%/năm). Quy mô kinh tế tiếp tục được mở rộng, năm 2020 ước đạt
276,6 nghìn tỷ đồng (tương đương khoảng 12 tỷ USD), gấp 2,1 lần so với năm 2015
(131,3 nghìn tỷ đồng), đứng thứ 2 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. GRDP bình
quân đầu người năm 2020 ước đạt 5.863 USD, vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội XV
đề ra (5.600 USD), gấp gần 2 lần so với năm 2015 (3.042 USD), gấp gần 2 lần của
cả nước (3.000 USD)
Các
khu công nghiệp, khu kinh tế được hình thành và mở rộng, thu hút hàng tỷ USD vốn
FDI mỗi năm. Nhiều doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực chế
biến, chế tạo, logistics, cảng biển, sản xuất công nghệ cao. Giai đoạn 2016-2020, có 89,7% vốn FDI đầu tư vào các
ngành công nghiệp thành phố, trong đó có 89,5% vốn FDI đầu tư vào các ngành
công nghiệp chế biến chế tạo, với nhiều dự án trên dưới 1 tỷ USD của nhiều nhà
đầu tư lớn, trong đó đóng góp chủ lực của Tập đoàn LG (Hàn Quốc) đầu tư trên 06
tỷ USD vào Tổ hợp nhà máy sản xuất linh kiện điện tử hiện đại, có giá trị
thương mại cao.
Đến
năm 2024, các khu công nghiệp, khu kinh tế của Hải Phòng đã thu hút được tới
4,35 tỷ USD vốn FDI, bằng 242% kế hoạch năm (từ 1,8-2,3 tỷ USD), nâng tổng vốn
FDI luỹ kế đến nay là 30,3 tỷ USD với tổng cộng 594 dự án. Trong đó, tỷ lệ các
dự án thuộc lĩnh vực công nghệ cao, chế biến, chế tạo, logistics đầu tư vào các
khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn chiếm tới 77%.
Ngân
sách thu nội địa: Năm 2010 chỉ xấp xỉ 10.000 tỷ VNĐ đến năm 2024 đạt 50.068 tỉ
đồng, đứng thứ 3 toàn quốc sau TP Hồ Chí Minh và Hà Nội, bằng 133,2% dự toán
Trung ương giao (Cục Thuế TP Hải Phòng).
Đạt
được những kết quả trên, do Đảng bộ thành phố phát huy tốt vai trò hạt nhân
lãnh đạo, đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường đối thoại với
doanh nghiệp, người dân, xây dựng đội ngũ cán bộ công tâm, trách nhiệm, gần
dân. Những mô hình “chính quyền điện tử”, “dân vận khéo”, “cải cách vì người
dân phục vụ” được triển khai sâu rộng và có hiệu quả thực tiễn rõ nét. Cùng với
phát triển kinh tế, thành phố quan tâm chăm lo phát triển văn hóa, giáo dục, y
tế, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường, đưa Hải Phòng trở thành điểm sáng
trong khu vực về chất lượng sống đô thị.
Thực
hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội XVI, XVII Đảng bộ
thành phố, Hải Phòng đặt mục tiêu trở thành thành phố công nghiệp hiện đại,
thông minh, sinh thái – là động lực phát triển vùng và cả nước. Giai đoạn này,
Đảng bộ thành phố xác định rõ các trụ cột phát triển: Phát triển kinh tế biển
và cảng biển hiện đại gắn với dịch vụ logistics đẳng cấp quốc tế; Thúc đẩy chuyển
đổi số toàn diện, phát triển đô thị thông minh; Xây dựng thành phố xanh, thích ứng
với biến đổi khí hậu.; Phát triển con người Hải Phòng toàn diện, giàu bản sắc.
Kết quả trên là minh chứng rõ nét cho hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới mô
hình tăng trưởng mà Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã kiên định thực hiện, bám sát
các Nghị quyết Trung ương và cụ thể hóa bằng Chương trình hành động Thành ủy.
Đặc
biệt, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân được nâng lên tầm mới, không chỉ ở niềm
tin chính trị mà còn thông qua sự tham gia thực chất vào xây dựng chính sách,
giám sát, phản biện và thụ hưởng thành quả phát triển. Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò quan trọng trong kết nối Đảng- Chính
quyền -Nhân dân. Đảng bộ thành phố tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng,
đạo đức và tổ chức; chú trọng nêu gương, kỷ luật, làm tốt công tác cán bộ; nâng
cao năng lực dự báo, lãnh đạo và điều hành thích ứng với bối cảnh mới. Sự gắn
bó máu thịt với nhân dân - xuyên suốt trong chiến đấu bảo vệ và xây dựng- là nền
tảng vững chắc để Đảng bộ Hải Phòng giữ vững sứ mệnh lãnh đạo, đưa thành phố
vươn tầm quốc gia và khu vực.

Góc
di tích lịch sử Bạch Đằng Giang

Chùa
tháp Tường Long – Đồ Sơn

Khi
thành phố lên đèn

Gần
một thế kỷ xây dựng và trưởng thành, lịch sử Đảng bộ thành phố Hải Phòng là lịch
sử của sự gắn bó không thể tách rời giữa Đảng với nhân dân. Chính mối quan hệ
máu thịt ấy đã giúp thành phố vượt qua chiến tranh, khủng hoảng, gian khó và
vươn lên mạnh mẽ trong thời đại mới. Trong giai đoạn tới, giữ vững niềm tin của
nhân dân, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững
mạnh sẽ là chìa khóa để Hải Phòng phát triển nhanh, bền vững, hiện đại và giàu
bản sắc.