ĐÌNH - CHÙA
PHỤNG PHÁP
(Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia)
Quần thể di tích Đình -
Chùa Phụng Pháp tại phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng bao
gồm Chùa Phụng Pháp và Đình Phụng Pháp.
Đình Phụng Pháp là một công trình văn hóa cổ còn tương đối nguyên vẹn. Theo các cụ già
phường Đằng Giang, nguồn gốc ban đầu của ngôi đình ở xóm Trại, làm bằng vật liệu
tre nứa, sau được di chuyển về xóm Trung, đến năm Thiệu Trị thứ 6 (Bính Ngọ
1846) đình được tu tạo bằng gỗ như hiện nay. Năm Tự Đức 34 (1881) đình được
trùng tu, năm Bảo Đại 16 (Nhâm Ngọ 1942) đình lại được tu tạo lại. Từ ban đầu,
ngôi đình được đặt tên chữ là Khánh Thọ đình. Đặc biệt cho đến khi làng xã Phụng
Pháp phát triển thêm xóm Bắc, xóm Nam, mỗi xóm thành làng, mỗi làng lại dựng
thêm một ngôi đình. Nhưng cư dân làng xã vẫn tôn gọi đình Khánh Thọ là ngôi
đình chung của cả xã.
Đình nằm trên khu đất
cao, giữa con đường đất chạy từ phía Bắc tới phía Tây Nam xã (nay là đơn vị
hành chính cấp phường). Đình được kết cấu kiểu chữ Đinh (丁) , mặt chính quay về hướng Tây, hàm ý hướng về loa
thành tây vọng ghi nhớ công lao đánh giặc của Ngô Vương Quyền. Cổng đình là một
kiến trúc độc lập so với kết cấu nội thất đình, bao gồm công tam quan 2 tầng
mái đao cong, giữa là đối cột trụ hình chữ nhật, phía trên là khối vuông kiểu
đèn lồng, đỉnh nóc của đối cột gắn đôi nghệ chầu, mình phủ đầy vẩy bằng nhiều mảnh
sành nhỏ, lớp tường bao cố trổ 5 thoáng nối kiến trúc, công chính với hai bên tả,
hữu thành công tam quan khép kín, hướng mặt chính ngôi đình Đằng Giang sát con
đường làng đồng thời in bóng xuống dải đầm nước mênh mông ở phía trước. Liền kề
với cổng đình là cổng chùa, cổng miếu nay là vị trí đài tưởng niệm liệt sĩ địa
phương, cũng bóng cây đa, cây si cổ thụ tỏa bóng xanh mát gợi cảnh "Cây
đa, bến nước mái đình", từ lâu đã đi vào tục ngữ dân gian Việt Nam. Qua
sân gạch, sát tường cổng là hai nhà bia xây hình trụ ống, kiến trúc ngôi đình
đã mất đi một tòa giải vũ phía trái do hư hỏng đã tháo dỡ từ lâu.
Nhìn chính diện kiến
trúc đình gồm 5 gian 2 dĩ. Bộ khung gỗ đứng vững trên ba lớp thềm bậc bằng đá
xanh cổ số đo bằng (200-300 và 220cm), ba gian giữa cửa thùng khung khách(18
cánh) cao 3,8m. 2 gian bên xây tường gạch, trổ 18 thoáng hình chữ thọ. Mái đình
lợp ngói vẩy rồng hai lớp. Chính giữa bờ nóc đắp hình mặt thủy quái Makara đội
mặt nhật và đôi kìm ngắm bờ nóc mái. Đầu mái đao cong vút mang trang trí
"rồng chầu phượng múa". Bên trong Đình, hệ thống cột, kèo, đại tự,
câu đối… được làm tinh sảo, trạm khắc, sơn son, thiếp vàng mang đạm dấu ấn của
văn hóa Việt.
Hiện tại, những hiện vật
đáng quan tâm của Đình bao gồm: Ngoài sân: 4 chiếc bia đá gồm 1 bia mang niên
hiệu Cảnh Hưng (34) cao 143, rộng 48cm, ngang 32, kiểu trúc đài. 3 bia còn lại
kiểu dẹt còn khá nguyên vẹn, đều được làm trong thời Nguyễn: Tự Đức, Thành
Thái, Khải Định. Tất cả các bia này đã được nhân dân tập trung bảo quản tại nhà
bia ở hai phía tả hữu công đình. Đáng lưu ý là có bia ghi lại việc trùng tu
ngôi đình vào năm Tự Đức 34 (1882). Hiện vật trong nội thất đình đều là những
hiện vật thời Nguyễn.
Cũng giống nhiều làng
quê ở phía Đông Nam thành phố Hải Phòng (17 làng xã) có cùng tục thờ Ngô Quyền
làm Thành hoàng. Lệ cổ ở Phụng Pháp (tức phường Đằng Giang bây giờ) quy định.
Ngày hội kỷ niệm Ngô Vương(17.1) dân làng tổ chức rước bát hương từ miếu về
đình mở hội sau ba ngày lại rước về an vị. Mỗi khi khánh thành tu tạo đình mới
được rước thánh tượng về đình làm lễ. Sau lễ tế, là một loạt các trò vui được
diễn ra trước sân đình, thu hút đông đảo dân làng và quý khách thập phương tới
thắp hưởng cửa miếu, cửa chùa, tham gia đua tài tại sân cờ tướng, chọi gà, chiếu
chèo sân đình.
Ngoài ra ngày 3.3 âm lịch
được coi là ngày hội làng. Lễ tế kỳ an của địa phương. Thành hoàng từ đình Bắc
đình Nam đều được dân làng rước về đình Trung (tức ngôi đình Đằng Giang hiện tại)
để vào đám. Qua phú húy được dân làng trịnh trọng đọc trong ngày lễ kỳ an, cho
thấy các dòng họ của cư dân Phụng Pháp tôn thờ nhiều vị có tên tuổi trong lịch
sử các triều đại phong kiến có mặt ở vùng đất tỉnh Đông. Ví dụ như: Hồng Ninh Đại
vương (Mạc Mậu Hợp-Đức thánh niệm (Phạm Tử Nghi); Hưng Đạo Vương; Đông Hải đại
vương, Thánh Châu công chúa... Ngoài ra trước kia làng xã còn có tục tế đình tại
văn chỉ miếu của làng xã nay đã bị đổ nát, nên lễ hội chủ yếu tập trung tại
đình, chùa vào dịp đầu xuân tạo lên cảnh sinh hoạt văn hóa cổ truyền phong phú ở
phường ven đô của quận Ngô Quyền.
Chùa Phụng Pháp là một ngôi chùa làng có lịch sử lâu đời, do dân làng
Phụng Pháp, huyện An Dương xây dựng. Hiện nay chùa thuộc phường Đằng Giang,
quận Ngô Quyền thành phố Hải Phòng. Chùa Phụng Pháp nằm trong quần thể di tích
lịch sử văn hóa của dân làng Phụng Pháp xưa, gồm đầy đủ các công trình văn hóa
tín ngưỡng cổ truyền của một làng quê Việt Nam truyền thống như đình, chùa, đền
miếu và điện thờ. Trải qua thời gian, khí hậu khắc nghiệt, sự hủy hoại của
chiến tranh nhiều công trình xưa không còn nữa, nhiều di tích cũ bị biến dạng,
hoặc thay đổi so với nguyên gốc di tích.
Chùa Phụng Pháp là một quần thể kiến
trúc gồm nhiều tòa ngang dãy dọc, mặt chính quay hướng chính Tây, có những kiến
trúc nổi bật như:
Phật điện chùa Phụng Pháp có bố cục
hình chữ đinh, gồm ba gian tiền đường và hai gian hậu cung.
Tòa tiền đường ba gian, đứng vững trên
4 bộ vì kèo gỗ. Các bộ vì có cấu trúc tương tự nhau: Vì trên có kết cấu “chồng
rường biến thể giá chiêng”, vì dưới là kẻ suốt kiểu kẻ cổ ngỗng. Mỗi mái gồm 4
khoảng hoành bố cục theo kiểu “Thượng tam hạ tứ”, đác hoành mái được bào vuông
thành sắc cạnh và thẳng tắp.
Mỗi bộ vì gồm 4 hàng chân cột (2 cột cái
và 2 cột quân) và các cột đều được kê trên chân tảng đá tròn trên vuông dưới.
Liên kết dọc của tòa nhà chủ yếu vẫn là hệ thống xà thượng (nối các cột cái) và
xà hạ (nối các cột quân) mà thôi. Dưới xà thượng phía sau ở các gian người ta
đều lắp y môn, cửa võng sơn son thiếp vàng lộng lẫy và chạm khắc công phu.
Hậu cung tòa nhà dọc 2 gian hay nói
chính xác hơn là 2 gian hai dĩ. Về mặt kết cấu kiến trúc cùng phong cách với
tòa tiền đường, chúng là sản phẩm ra đời vào nửa đầu thế kỷ 20. Ở tòa hậu cung
này có một vài điểm khác với tòa tiền đường như sau: Nền cao hơn một cấp, không
có hàng cột quân cho nên chức năng của cột quân được trao cho bức tường kèm hai
bên hậu cung. Cấu tạo của ba bộ vì gỗ tương tự nhau: Vì trên là kết cấu chồng
rường, vì dưới là hình thức ván mê quen thuộc.
Trong chùa, hệ thống các Tượng được bày
trí theo đúng phong tục và nghi lễ phật giáo, bao gồm các Tượng tại Tòa tam bảo,
Tượng Thánh Tăng, Tượng Đức ông… Chuông đồng được tạo dáng thon thả, cao 1,2m,
đường kính miệng 55cm (có niên đại Nguyễn (1802-1945)). Ngoài những hiện vật
trên, trong tòa điện phật còn có một số di vật khác như câu đối, khám thờ, bát
hương sứ, chấp kích, bát bửu...
Chùa Phụng Pháp nằm ở vị trí có tầm
quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Theo truyền ngôn và một
số tài liệu địa phương, khu vực này từng được cho là có liên quan đến chiến
thắng Bạch Đằng năm 938. Những vết tích vật chất phật thoại, bia ký... hiện lưu
giữ tại di tích và trong nhân dân địa phương là nguồn sử liệu quý giá cho việc
nghiên cứu tìm hiểu nhiều vấn đề của lịch sử Thành phố Cảng cũng như tình hình
phát triển phật giáo, đời sống kinh tế, xã hội của nhân dân địa phương.
Đình - Chùa Phụng Pháp là nơi sinh hoạt
tín ngưỡng của cộng đồng Phật tử và người dân địa phương. Hàng năm tổ chức các
hoạt động Phật sự như lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, và các khóa tu học, thu hút đông
đảo Phật tử tham gia. Lễ hội được tổ chức từ ngày 10 -14 tháng 2 âm lịch (lễ kỳ
phúc) và ngày 16 tháng Giêng âm lịch (kỷ niệm ngày sinh Ngô Vương) nhằm tưởng
niệm Đức Vương Ngô Quyền, vị anh hùng dân tộc có công đánh đuổi quân Nam Hán
trên sông Bạch Đằng năm 938.
Ngày 15/10/1994, Bộ
Văn hóa - Thông tin và Thể thao đã ra Quyết định số 2754-QĐ/BT, ngày 15/10/1994 công
nhận Đình - Chùa Phụng Pháp là Di
tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia./.