ĐÌNH LẠC VIÊN
(Di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc
gia)
Đình Lạc Viên là
công trình kiến trúc cổ do nhân dân làng Lạc Viên xưa xây dựng nên nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng cổ truyền mang đậm nét bản sắc
dân tộc. Ngày nay, Đình Lạc Viên vẫn toạ lạc trên mảnh đất cũ, thuộc khu dân cư
số 6, phường Lạc Viên, Quận Ngô Quyền, được biết bao thế hệ người dân nơi đây
gọi bằng cái tên quen thuộc - Đình Lạc Viên. Trải qua bao thăng trầm của thời gian, ngôi
đình vẫn được bảo tồn gần như nguyên vẹn. Với qui mô kiến trúc độc đáo, Đình
Lạc Viên là ngôi đình quý hiếm, thu hút sự quan tâm của du khách khi đến thăm
các di tích lịch sử văn hóa khu vực nội thành Hải Phòng. Đình nằm trong khu
vực trung tâm thành phố, gần ngã 5 năm đi sân bay Cát Bi, nơi có tuyến đường Lê
Hồng Phong - tuyến đường đẹp và hiện đại nhất nội thành Hải Phòng, thuận lợi di
chuyển bằng phương tiện đường bộ. Từ Ngã 5, du khách đi theo đường Đà Nẵng
hơn 300m đến ngõ 165; tại đầu ngõ có cổng chào lớn để chữ Đình Lạc Viên, đi vào
ngõ khoảng 50m ta sẽ thấy địa chỉ cần tìm.
Đình có có lịch sử hình thành lâu đời, là nơi linh
thiêng người dân thờ các vị
thành hoàng: Đức thần đệ nhất - Ngô Vương Quyền, Đức thần đệ nhị - Đoàn Thượng,
Đức thần đệ tam - Nam Hải đại vương Phạm Tử Nghi và phối thờ một số nhân vật
lịch sử khác. Đức vương Ngô Quyền được thờ chính tại đình; ông là anh hùng dân
tộc, ông tổ trung hưng của nền độc lập dân tộc ta ở thế kỷ 10, người đã chỉ huy
quân và dân Đại Việt làm nên chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất, năm 938, đánh
tan đội quân xâm lược Nam Hán, chấm dứt ngàn năm đất nước ta bị lệ thuộc phong
kiến phương Bắc. Đức Thánh đệ nhị Đoàn Thượng là một vị hoà trưởng nổi bật vùng
Hải Dương, sống vào cuối thời Lý; ông có công bảo vệ Nhân dân, chống giặc ngoại
xâm, được Nhân dân tôn thờ tại nhiều địa phương đồng bằng sông Hồng, trong đó
có đình Lạc Viên. Đức Nam Hải đại vương Phạm Tử Nghi, là người “có công giữ
nước, giúp dân, có ơn đức rất mực, đã cất quân dấy nghiệp, chức Nam Dương Đông
nguyên soái, tóm thâu làm tiết chế cả mọi dinh thuỷ bộ ở khắp nơi, phong là Phò
mã Đô uý Thái uý tước Thành Quốc công, Nam Hải linh ứng đại vương” (theo sắc
phong cho các đình, miếu thờ Phạm Tử Nghi vào năm Cảnh Trị thứ tám, đời vua Lê
Huyền Tông (1670). Ngoài ba vị thần thờ chính, Đình Lạc Viên còn phối thờ ba vị
thần địa phương: Bản Lộ Đô Thống Đông Hải Qúi Minh đại vương; Hồng Ninh Trung
Tông Hoàng Đế; Nam Dương đệ nhất Qúi Nương Minh Diệu đại vương. Tuy chưa rõ
thần tích, ngày sinh - hoá, các vị này được dân làng rước bài vị từ miếu bản về
đình để phối thờ theo truyền thống tôn kính bản địa.
Đình Lạc Viên được
biết đến là ngôi đình cổ, kết cấu bằng chất liệu truyển thống, được cấu trúc
theo kiểu thức cổ truyền, có quy mô kích thước khá lớn, nội dung điêu khắc,
trang trí trên cấu kiện gỗ bằng nhiều đề tài phong phú, đa dạng có giá trị mỹ
thuật cao. Theo tư liệu kiến trúc và truyền ngôn, đình có thể khởi dựng từ thế
kỷ XVII, thời Lê Trung Hưng. Từ khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng, bước lên
thềm đình Lạc Viên là ba bậc tam cấp được ghép bằng những phiến đá xanh, có
kích thước to và rộng bản tạo ngay cho ta cảm giác sự uy nghiêm, vững chắc của
ngôi đình. Đình được xây dựng theo kiểu tường hồi bít đốc, tay ngai. Phần ngoài
của tay ngai là hai cột đồng trụ, đế trụ tạo dáng quả bồng, thân trụ đắp chỉ
tạo khung câu đối. Đầu trụ tạo dáng đèn lồng, đỉnh trụ đắp hình long cuộn tạo
hình như một nụ hoa vươn lên để nở trên trời xanh. Trên bờ nóc đình trang trí
tổ hợp tượng tròn theo thức truyển thống “lưỡng long chầu nguyệt”. Hai đầu nóc
là hai con kìm thể hiện hình dáng thuỷ quái Makara, thần làm chủ nguồn nước,
ước vọng của cư dân trồng lúa nước cầu mong mưa thuận gió hoà. Giữa hai bờ chảy
của ngôi đình, mỗi bên được đắp hai con sô, trông như hai con lân đang ở tư thế
quan sát, nhìn xuống soi rọi con người đến chốn đình chung. Các linh vật trang
trí trên mái đình đều được gắn những mảnh gốm cổ trông rất lung linh, huyền ảo.
Phần bao che mặt trước Đình Lạc Viên là hệ thống cửa gỗ, gồm năm gian: Gian
giữa và hai gian bên, ngưỡng cửa thấp theo kiểu ngưỡng trệt, gian cửa giữa
rộng, cấu tạo sáu cánh hai gian bên cấu tạo mỗi bên bốn cánh. Hai gian hồi
ngưỡng cửa được đặt cao, kiểu ngưỡng cóc, cao tới 80 cm phần lá ngạch dưới
ngưỡng xây bít bằng gạch, mỗi gian có sáu cánh cấu tạo cửa như trên của đình
Lạc Viên tạo ra sự thông thoáng cho ngôi đình và tôn vẻ đẹp mặt tiền của công
trình. Hệ thống năm gian cửa đình đều được làm bằng gỗ tứ thiết và làm theo
thức cửa thùng khung khách, soi sen chỉ cạnh.
Đình Lạc Viên làm
theo kết cấu kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung, trong đó
có một gian cung cấm. Hệ khung chịu lực của đình làm bằng gỗ lim, các kích
thước gian, bộ vì độ cao của hệ thống cột, hệ mái đều tương đối lớn. Qua những
lần trùng tu, hiện tại bộ khung gỗ của đình vẫn còn gần như nguyên vẹn, các
tiêu bản trang trí chạm khắc, các cấu kiện của bộ khung đều không bị thay thế. Toà
tiền tế đình cấu tạo khung gỗ gồm 6 bộ vì, kiểu vì bốn hàng chân cột. Hai bộ vì
gian trung tâm cấu tạo vì nóc kiểu chồng rường giá chiêng con nhị, vì nách kiểu
cốn trang trí điêu khắc. Hai bộ vì trên được tập trung trang trí công phu, tỉ
mỷ hơn, các bộ vì khác của ngôi đình. Vì nóc của 2 bộ vì, các thân rường được
tạo dáng vỏ măng, các đầu rường chạm nổi, chạm bong kênh lá lật, các rường được
kê lên nhau bằng các đấu vuông thót đáy. Thân đấu, kể cả đấu đĩa đều được chạm
nổi hình hoa sen cách điệu. Các bức cốn vì nách của 2 bộ vì, mặt trong (mặt
tiền) được chạm nổi, chạm bong kênh để tài tứ linh, vân cụm, vân tản, cá chép
vượt vũ môn. Mặt cốn nách phía ngoài (mặt cốn hậu) chạm bong kênh đề tài tứ quý
(tùng, cúc trúc, mai). Dạ câu đầu được chạm hạ sâu một cấp, trên dạ chạm chìm
khung câu đối. Hai đầu dạ câu đầu là hai đầu dư. Đầu dư cấu tạo dài, được chạm
nổi kết hợp với chạm bong kênh, chạm lộng hình đầu rồng lớn, miệng ngậm ngọc
râu, tóc rồng bay ngược về phía sau. Hai bộ vì gian bên, vì nóc cấu tạo và
trang trí điêu khắc tương tự như bộ vì gian trung tâm. Vì nách kết cấu kiểu
chồng rường trụ trốn đấu sen. Thân rường tạo dáng vỏ măng, đầu rường chạm nổi
chạm bong kênh lá lật, các rường được kê trên nhau bằng các đấu vuông thót đáy,
thân đấu chạm nổi hoa sen cách điệu. Hai bộ vì hồi, vì nóc cấu tạo và trang trí
điêu khắc tương tự như các vì nóc của các bộ vì toà tiền tế, vì nách được kết
cấu kiểu cốn bưng, chạm khắc mặt ngoài theo thức chạm nổi đề tài tùng, lộc, hoa
dây chữ triện lá giất.
Các bảy tiền của
đình Lạc Viên cũng là các cấu kiện nơi phô diễn tài nghệ của các nghệ nhân điêu
khắc. Phong cách chạm trổ gắn với đặc trưng kiến trúc mỹ thuật thời Nguyễn thế
kỷ XIX. Trên má bảy, kết hợp với vấn lá dong là những mảng chạm bong kênh, chạm
chìm với các đề tài diệp hoá long, vân tản, vân cụm. Nghé bảy kết hợp với xà
nách cũng tạo thành một mảng chạm nổi, bong kênh đề tài diệp hoá long. Dưới
đuôi bảy phần giáp với cột quân, người ta tạo kiểu con sơn để đỡ bảy. Song con
sơn được chạm khắc hoa lá, nên trông cấu kiện vừa chắc khoẻ, vừa đẹp mắt. Trán
bảy được chạm chìm chữ thọ, theo kiểu chữ Hán cách điệu Toà hậu cung đình Lạc
Viên, kết cấu bằng hai bộ vì kiểu bốn hàng chân cột hệ thống cột có kích thước
tương đương như cột toà tiền tế. Bộ vì gian cung ngoài được các nghệ nhân điêu
khắc tạo ấn tượng ngay ban đầu cho mọi người khi vào nơi thờ tự. Vì nóc được
cấu tạo cốn bưng, trên cốn chạm nổi, bong kênh lưỡng long chầu nguyệt, vân tản.
Vì nách cấu tạo cốn bưng, song được trang trí điêu khắc để tài phượng vũ và ở
thế chẩu vào trong. Bộ vì gian cửa cung cấm có vì nóc cấu trúc kiểu chồng rường
thước thợ. Các rường, khung thước thợ được bào trơn soi sen chỉ cạnh. Vì nách
chồng rường đấu sen, thân rường chạm bong kênh lá lật,đấu chạm nổi hoa sen cách
điệu. Cửa giữa cung cấm cấu tạo rộng lớn, ngưỡng làm cao tới 75cm. Cách cấu tạo
này chỉ để tạo sự thông thoáng cho cung cấm chứ không để đi lại, còn vào cung
cấm qua hệ thống cửa nách ở hai bên cửa chính. Hệ thống cửa chính và cửa nách
đều làm theo thức cửa thùng khung khách và bằng gỗ lim. Phần bạo ngang trên mỗi
cửa được trang trí hai mắt cửa hình tròn như hai bánh xe, mặt bánh xe được tạo
gờ chỉ nổi vê tròn, cách trang trí này tạo thêm vẻ đẹp cho cửa cung vừa có chức
năng che đi phần thô của một cấu kiện kiến trúc cửa. Liên kết chặt chẽ giữa các
bộ vì của toà tiền tế và toà hậu cung là hệ thống xà thượng và xà hạ (còn gọi
là xà đai). Xà thượng, xà hạ được bào nhẫn tạo dáng vỏ măng. Hệ thống hoành đỡ
mái là các cây gỗ tròn có đường kính 15 cm được giải theo lối thượng tam, hạ tứ
(phía trên đầu cột cái ba hoành, dưới bốn hoành). Rui mái bản rộng, dây, do vậy
cùng với thợ lợp có kỹ thuật cao nên mái đình tuy rộng, lớn nhưng vẫn phẳng đều.
Toàn bộ hệ thống chân cột được kê trên các chân tảng đá xanh chắc khoẻ. Bốn
chân tảng của cột tứ trụ, được tạo tác hình trụ quả bồng cao hơn các chân tảng
khác. Các chân tảng còn lại tạo dáng hai cấp, cấp dưới hình vuông, tượng cho
đất, cấp trên hình tròn, tượng cho trời (trời tròn, đất vuông).
Hiện nay, mặc dù là
khu dân cư sinh hoạt theo tính chất phố phường, nhưng người dân Lạc Viên vào
các ngày sóc, vọng (tuần, rằm) vẫn đến dâng hương lễ bái tại đình Lạc Viên rất
thành kính; đặc biệt, là vào các ngày sự lệ trong năm như các ngày 17 tháng
giêng giỗ Đức Thánh Ngô Vương Quyền, ngày 14 tháng 9 ngày hoá của Đức thánh
Phạm Tử Nghi và ngày 6 tháng 12 ngày Đức thánh Đoàn Thượng hoá. Theo lệ cũ,
nhân dân địa phương tổ chức lễ hội rất linh đình, đông vui, người trong và
ngoài địa phương đến tham dự hội rất đông. Trong lễ hội có tế lễ, văn nghệ biểu
diễn giao lưu trong và ngoại khu dân cư. Ngoài ra, người dân Lạc Viên theo tiết
lễ cổ truyền để lại, còn tổ chức vào các ngày 6/1 lễ dâng hương khai xuân, 10/2
kỷ niệm chiến thắng Bạch Đằng và 7/12 lễ hậu thần phối hưởng. Lễ hội và sinh
hoạt văn hoá tín ngưỡng tại đình Lạc Viên góp phần quan trọng trong việc giữ
gìn và phát huy những di sản văn hoá hiện còn tồn tại ở ngôi đình; tạo sự đoàn
kết, gắn bó trong cộng đồng dân cư.
Trải qua thăng trầm
của lịch sử, các di vật, cổ vật của đình còn lại rất ít; các đồ thờ tự tế khí
trong đình là do nhân dân địa phương và khách thập phương cung tiến từ khi khôi
phục lại việc thờ tự của ngôi đình năm 1992 đến nay. Một số di vật còn lại và
một số đồ thờ tự mới song có giá trị về mỹ thuật cao của đình gồm:
Long ngai: Long
ngai số 1 có kích thước cao 85 cm, rộng 48cm, dài 58cm; đế long ngai tạo dáng
sập thờ nhiều tầng, chân quỳ dạ cá, gót chân tạo dáng vân cụm đầu chân chạm nổi
hổ phù phun diệp, dạ cá chạm nổi hổ phù. Trên các tầng của đế long ngai được
thể hiện các thức chạm nổi chạm thủng với các đề tài hoa dây, giải lụa, cuốn
thư, tứ quý. Thân long ngai tạo sáu trụ con tiện và vách gỗ phía sau lưng đỡ
tay long ngai. Thân trụ chạm nổi, chạm bong kênh hình rồng quấn quanh trụ, theo
thế hồi long (rồng quay đầu lại). Vách lưng long ngai cấu tạo bản gỗ bong về
phía sau. Trên vách lưng long ngai tạo diễm và các khung ô, trên đó được chạm
thủng các đề tài lẵng hoa, hoa cúc hoa dây tay long ngai hình cánh cung, hai
đầu tay tạo hình đầu rồng vươn về phía trước, tóc rồng bay ngược về phía sau.
Long ngai được thếp bạc phủ hoàn kim, được xác định có niên đại tạo tác đầu thế
kỷ 20. Long ngai số 2 có kích thước nhỏ hơn long ngai số 1, kiểu cách cơ bản
giống long ngai số; song chạm khắc trên long ngai số 2 có đề tài khác với long
ngai số 1; như long ngai số 2 chạm diệp hoá long, vách lưng long ngai chạm
thủng đề tài long, phượng long ngai số 2 cũng được thếp bạc phủ hoàn kim, và
được xác định có niên đại tạo tác đầu thế kỷ XX.
Bài vị: Bài vị đế
tạo dáng trụ đấu thắt giữa, thân bài vị phía ngoài tạo diễm đao lửa, phần sát
diễm được tạo khung trong khung chạm nổi diệp hoá long. Trán bài vị hình tròn
kiểu mặt nguyệt diễm ngoài trán tạo đao lửa, bên trong chạm nổi lưỡng long uốn
khúc chẩu vào vòng tròn ở giữa trân mặt nguyệt của bài vị. Bài vị được thếp bạc
phủ hoàn kim, được xác định có niên đại tạo tác đầu thế kỷ XX.
Long đình: Cao 3,3m
tứ diện vuông kích thước mỗi cạnh 97cm. Đế long đình chân vuông thẳng, quây
chân bốn mặt theo kiểu triện rút dạ cá. Phần triện rút chạm nổi hoa dây, vân
tản lân châu. Dạ cá chạm nổi hổ phù hàm thọ. Đế long đình còn tạo các khung ô
có kích thước khác nhau, trong khung ô chạm thủng, chạm nổi các đề tài hoa dây
giải lụa, cuốn thư, tứ quý. Thân long đình cấu tạo khung kép, khung ngoài gồm 4
trụ góc trên thân trụ chạm nổi long vân. Phần khoảng cách phía trên của các
khung trụ được trang trí theo kiểu cửa võng, chạm thủng lưỡng long chầu nguyệt,
lưỡng phượng mang thư, hoa dây có chân chỉ rủ. Khung trong thân long đình tạo
các khung ô nhỏ, trong ô chạm thủng hoa chanh, hoa dây. Phần phía trên của ba
mặt khung lớn, khung trong cũng được trang trí kiểu cửa võng, cửa võng chạm
thủng để tài lưỡng long chầu nguyệt, lưỡng phượng châu. Phần phía dưới khung
của khung trong, tạo tác bằng ván bưng kiểu hậu bành có hai tay ngai. Mặt ngoài
tay ngai chạm nổi long vân. Hậu bành tạo hình tam sơn, mặt ngoài chạm nổi, chạm
bong kênh đề tài tứ linh (long, ly, quy, phượng). Mái long đình cấu tạo kiểu
chồng diêm, hai tầng tám mái, các bờ chảy, đao cong của mái, dưới chạm nổi hình
rồng vươn hẳn đầu ra ngoài Bờ chảy đao cong mái trên chạm nổi hình phượng vũ.
Cổ diêm phần chuyển tiếp giữa hai mái chạm thủng bốn mặt đề tài tứ linh. Đỉnh
mái long đình chạm đài hoa cách điệu. Long đình tuy là hiện vật mới được cung
tiến vào đình song do các nghệ nhân có tay nghề điêu luyện và được trả công
thoả đáng nên tác phẩm long đình gần như các long đình của cổ nhân 4. Bức đại
tự lớn được treo tại gian chính diện của toà bái đường đình có kích thước dài
2,2m, rộng 0,8m có khung diểm kiểu vỏ măng; trên khung chạm nổi đề tài tứ quý,
điểm xuyết có các mảng gấm; khắc nổi nến hoa gấm gồm bốn chữ Hán lớn “Nam thiên
thế tự” (tạm dịch là: nước Nam mãi mãi phụng thờ đức Thánh Ngô Vương thiên tử);
là một tác phẩm nghệ thuật đẹp tô điểm và làm rực rỡ thêm hệ thống thờ tự trong
ngôi đình cổ kính.
Ngày 22 tháng 01
năm 2009, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ra Quyết định số 319-QĐ/BVHTTDL
xếp hạng Đình Lạc Viên là Di tích Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia./.