ĐÌNH - CHÙA GIANG
KHẨU
(Di tích Lịch sử Văn hóa cấp
thành phố)
Đình – chùa Giang Khẩu là hai di
sản văn hóa thuộc xã Đại Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Cụm di
tích đình – chùa Giang Khẩu tọa lạc trên thế đất đẹp, linh thiêng. Mặc dù có sự
thay đổi về địa danh hành chính, song đã bao đời nay, đình - chùa Giang Khẩu vẫn
tồn tại, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng cổ truyền, tôn
giáo đạo Phật của Nhân dân trong vùng.
Theo kết quả điều tra, điền dã tại địa phương,
đình làng Giang Khẩu thờ 3 vị có công với nước với dân: Người thứ nhất là Linh
Lang Đại Vương. Ông là một danh tướng thời Lý (1010 - 1220). Theo sách “Hà Nội
nghìn xưa” có ghi: Linh Đại Vương chính là Hoàng tử Hoằng Chân con vua Lý, do
bà Phi người làng Bồng Lai sinh ra tại chợ Thủ Lệ (nay thuộc quận Cầu Giấy, thành
phố Hà Nội). Năm 1069 quân Tống sang xâm lược nước ta Hoằng Chân trực tiếp dẫn
một đạo quân triều đình chống giặc và hi sinh tại phòng tuyến sông Cầu; người
thứ hai là Vị thần Nam Hải Đại Vương, tức là Phạm Tử Nghi, húy là Phạm Thanh.
Ngài là con ông Phạm Tín, người làng Vĩnh Niệm, huyện An Dương, phủ Kinh Môn,
trấn Hải Dương (nay là phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng). Tử
Nghi sinh vào niên hiệu Hồng Thuận, thuở thanh niên, ông ham học võ nghệ nên có
sức khỏe phi thường. Lúc bấy giờ, bọn cướp biển vào đánh phá quê hương, ông đã cùng
trai tráng trong làng luyện tập võ nghệ, đánh đuổi bọn cướp. Khi Mặc Đăng Dung lên
làm vua, ông ra sức phục vụ tận triều, lập nhiều công tích, trải thăng đến chức
Thái úy, tước Tứ Dương Hầu. Sau khi ông mất, nhiều nơi lập đền thờ. Nhà hậu Lê,
phải thể theo nguyện vọng của nhân dân phong ông làm Phúc Thần, ban thần hiệu
Nam Hải Đại Vương; người thứ ba là Đông Tỉnh đại thần (hiện chưa rõ sự tích,
công trạng) cũng được thờ trong đình. Ngoài ra, ban thờ hậu thần còn phối thờ
hai vợ chồng viên quan Khang Vi cùng vợ là Nguyễn Thị Lịch. Ông bà đã công đức
80 quan tiền và 5 mẫu ruộng cho xã làm việc công. Bản xã tôn ông là “Nhân dũng,
hậu phúc”, bà là “Chân hiếu, từ hậu, hậu thần”.
Mặc dù đình đã trải qua nhiều lần
tu tạo, nhưng vị trí, kết cấu, kiến trúc, vật liệu cấu thành như gạch, ngói, đặc
biệt là vật liệu gỗ tứ thiết để trơn nối khớp dùng mộng truyền thống còn lại
khá rõ ở ngôi đình. Đình Giang Khẩu có bố cục mặt bằng kiểu chữ đinh, gồm 5
gian bái đường và 3 gian cung cấm. Mặt chính của ngôi đình hướng Tây, kết cấu vì
nóc mái kiểu “cốn nóc – ván bưng trên kẻ”. Tuy cùng được tạo dựng bằng loại vật
liệu gỗ tứ thiết, nhưng những nét trang trí, khắc chạm linh vật rồng, mây đã
cho biết sự khác biệt về niên đại: 5 gian bái đường tu tạo năm Nhâm Ngọ -2003, những
nét vẽ màu sắc rực rỡ, với 4 hàng cột. Cốn nóc cửa hậu cung chính giữa, hai lối
hành lang ra vào cung còn sót lại hai mảng trạm gỗ để tại “Long Vân – Khánh Hội”.
Phía dưới khung trang trí ở hai lối ra vào hậu cung gắn với mỗi bên hai núm gỗ
tròn đường kính 0,5cm, thường xuất hiện nhiều trong trong kiến trúc cổ Hội An,
các nhà nghiên cứu thường gọi là “mắt cửa”. Đây là một phần kiến trúc ngôi đình
còn lại, có niên đại đầu thế kỷ XVIII. Dấu vết kiến trúc của ngôi đình còn để lại
trên hai bên mảnh tường hồi phía tả, hữu xây cất bằng loại gạch vồ cỡ 52 x 27,
gắn kết bằng vôi.
Chùa Giang Khẩu, còn có tên
Thiên Trúc Tự. Căn cứ theo bản dịch văn bia của chùa, niên hiệu Nguyễn Thành
Thái 1903 ghi lại việc nhà sư trụ trì tên là Thanh Nguyên, tại chùa Thiên Trúc,
xã Giang Khẩu, tổng Đại Công, huyện Tiên Lãng, tỉnh Phù Liễn năm Mậu Tý. Năm
Quý Hợi trang hoàng tượng phật. Năm Canh Tý tiến hành tạc tượng Cửu Long, xây dựng
tháp, làm hoành phi, câu đối và nhiều đồ thờ tự khác. Năm Quý Mão và những năm
sau đó hoàn thành, mở lễ, tế các bậc tiền nhân, công đức tu dựng ngôi chùa.
Kiến trúc cổ của ngôi chùa gồm 4
gian, 3 vì gỗ tứ thiết, được gia công theo lối bào trơn – đóng bén. Vì nóc kết
cấu theo kiểu cốn nóc, ván bưng. Các bàn thờ tự được bài trí theo lối chữ công,
gồm 3 gian nhỏ có 3 bàn thờ song song nhau. Ban chính giữa thờ các pho tượng phật.
Hai ban bên thờ tượng đức ông, ban thờ mẫu, tượng Đức Thánh Hiền…
Trải qua thời gian, đình Giang
Khẩu còn lưu giữ được một số di vật, cổ vật: Nhang án gỗ, hộp đựng ốc sắc, sắc
phong, bia đá, bát hương… Chùa Giang Khẩu hiện còn giữ gìn, bảo vệ được một số
pho tượng và di vật, cổ vật: Tượng Tam Thế, Tượng Di đà Tam Tôn, Tượng quan âm
Nam Hải, một số pho tượng phật trên ban thờ Mẫu, ban thờ tượng Sư Tổ, bia ký, bức
trạm gỗ…
Đình – chùa Giang Khẩu là nơi hội
tụ, sinh hoạt văn hóa truyền thống, gắn kết mối quan hệ tốt đẹp, đoàn kết giúp
đỡ nhau trong công đồng cư dân - nơi giáo dục truyền thống quê hương, thưởng thức
nghệ thuật của cha ông lớp trước cùng nhau giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc ngay trên quê hương. Hàng năm hội đình vào mùa xuân - ngày kị của linh
lang 6/1 âm lịch, Nam Hải Đại Vương tổ chức vào ngày 10/2 âm lịch, Đông Tỉnh Đại
Vương kỵ giỗ vào ngày 10/4 âm lịch. Khi mở hội, làng Giang Khẩu thường giao lưu
với làng Đề Xuyên cùng các làng trong tổng cũ, tế lễ, thi hát cổ truyền. Hội chùa
giỗ vị Sư Tổ Nguyên Tầng vào ngày 26/9 âm lịch, tạo không khí thân thiện, giao
lưu văn hóa trong cộng đồng làng xã.
Ngày 21 tháng 01 năm 2009, Uỷ
ban Nhân dân thành phố ra Quyết định số 172-QĐ/UBND công nhận Đình – Chùa Giang
Khẩu là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp thành phố.