ĐÌNH
VÀ CHÙA ĐÔNG CÔN
(Di
tích lịch sử văn hóa cấp thành phố)
-----
Đình và Chùa Đông Côn nằm trên địa phận
xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố gần
30km về phía Nam, địa phương có 2/3 dân số theo Đạo Thiên Chúa.
Đình Đông Côn thờ 3
vị Thành hoàng làng gồm: (1). Hoàng đế Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của
Nhà Trần. Ngài tên húy là Khâm, sinh ngày 11/11 năm Mậu Ngọ (1258), là con trưởng
của Thánh Tông, mẹ là Nguyễn Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu. Ngày 01/01 năm Kỷ
Mão (1279) lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Bảo. Vua Trần Nhân Tông là
vị vua nhân từ hòa nhã cố kết lòng dân, quyết đoán, hết lòng vì dân vì nước.
Trong thời gian 14 năm tại vị, đất nước trải qua hai cuộc kháng chiến chống
quân xâm lược Nguyên – Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Song với tinh
thần và phẩm vị của vị vua anh minh, Trần Nhân Tông đã cùng với Thái Thượng
Hoàng và các tướng lĩnh nhà Trần đứng đầu là Trần Quốc Tuấn đã tổ chức tập hợp
quân dân đánh bại hai lần xâm lược, chấm dứt mộng xâm lược của phòng kiến
Nguyên Mông đối với đất nước ta. Sau này, ông được dân làng tôn là Thành hoàng
và thờ tại đình; (2). Đông Hải Đoàn Thượng
tướng quân tôn thần, người làng Thung Độ, huyện Trường Tân, lộ Hồng Châu,
nay là thôn Thượng Độ, xã Đoàn Thượng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Năm 12 tuổi
mồ côi cả cha lẫn mẹ. Năm 16 tuổi biết nghề võ, nghiệp văn, có tài thao lược, sức
khỏe hơn người, được mọi người tin yêu. Năm 1209, Quách Bốc làm phản đánh vào
kinh thành, vua Cao Tông chạy về Quy Hóa, Đoàn Thượng cùng những người trung
thành với vua đã tập hợp binh mã, dẹp loạn rước vua về kinh thành, chỉnh đốn lại
chính sự. Ngài được vua phong tước hầu, giao cho trấn trị mặt biển phía Đông.
Trong những năm cuối Triều Lý, ngài cầm quân trung thành với triều đình đánh lại
các thế lực thù địch. Sau này, trong trận đánh cuối cùng tại Đồng Dao tháng chạp
năm 1238 với Nguyễn Nộn, ông đã chết và được thiên táng. Để tưởng nhớ công lao
của ông, nhân dân Đông Côn tôn thờ ông tại đình làng cho đến ngày nay; (3). Đặng Quốc Quân Dương Thành hầu tôn thần
(tên húy là Trứ), hóa ngày 10/10 âm lịch, cũng như các vị Thành hoàng khác,
ngài được thờ bằng bài vị tại đình Đông Côn.
Đình Đông Côn được khởi dựng từ thế kỷ
thứ XVII, đến thế kỷ thứ XIX đình được cơi nới to đẹp hơn. Cấu trúc của Đình
theo kiểu chữ “Đinh” gồm: 05 gian tiền đường và 03 gian hậu cung. Đình làm theo
thức chéo đao tàu góc, ván
sàn lòng thuyền theo mô típ truyền thống. Năm 1950, giặc Pháp dỡ bỏ lấy
vật liệu làm bốt Duyên Lão và bốt Đông Côn.
Năm 2007, dân làng đã huy động công sức
để dựng lại đình. Ngôi đình mới mang kiểu dáng của ngôi đình làng thời trước.
Đình có cấu trúc mặc bằng kiểu chữ Đinh, 05 gian tiền tế và 03 gian hậu cung. Mái
đình lợp ngói mũi loại nhỏ, các đầu đao được đắp bằng vôi vữa tổ hợp con giống
theo thức rồng chầu phượng vũ, tiên nóc mái chính giữa đắp lưỡng long chầu nguyệt,
hai đầu bờ góc là đôi kìm ngậm bờ nóc, ở khúc khuỷnh đắp con sô đứng ở tư thế
chĩa vào trong mái đình. Mặt tiền đình có ba gian cửa đóng theo thức “cửa thùng
khung khách”. Bộ khung gỗ cấu tạo bởi 4 bộ vì theo từng cặp giống nhau, vì nóc
kiểu “chồng giường giá chiêng”…
Chùa Đông Côn nằm
ngay cạnh đình, quay về hướng Tây, hướng được coi là hợp nhất trong kiến trúc
phật giáo Việt Nam. Phương Tây được coi là đồng nhất với cõi Tây phương cực lạc,
nằm trong sự cai quản của giáo chủ A-Đi-Đà. Chùa có cấu trúc mặt bằng kiểu chữ
đinh gồm: 05 gian tiền điện và 03 gian hậu điện theo kiểu kiểu đầu hồi bít đốc,
trục đấu tay ngai. Phần sau hoành, rui bằng gỗ và lợp ngói mũi. Hai bức tường mặt
trước chùa được trổ hai ô cửa sổ tròn trong có chữ Thọ cách điệu. Ba
gian cửa gỗ làm theo kiểu “cửa thùng khung khách”. Đỉnh bò nóc chùa ở chính giữa
đắp bức đại tự tên chùa bằng chữ Hán “Kim Liên tự”. Tiền điện và hậu điện đều cấu
tạo gồm các bộ vì từng cặp giống nhau được làm bằng bê tông cốt thép. Vì nóc cấu
tạo giá chiêng, vì nách chồng rường ba con. Các bộ vì được liên kết với nhau bằng
hệ thống xà đai.
Trải
qua các thời kỳ chiến tranh khốc liệt hầu như các di vật của Miếu và Chùa Đông
Côn đều bị phá hủy, chỉ còn một số ít được bảo tồn trong di tích. Cụ thể:
(1).
02 bài vị của Đình Đông Côn: Hai bài vị có chất liệu bằng gỗ cao
78cm, rộng 28cm. Đế được tạo dáng sập thờ chân quỳ dạ cá. Phần thắt giữa chạm
thùng hình phượng. Thân bài vị tạo khung ô dài theo chiều cao của bài vị, diềm
thân tạo dáng đao lửa, khung sát diềm chạm nổi long văn. Trán bài vị hình tròn,
diêm xung quành tạo đao lửa, giữa tạo ô tròn, chầu vào ô tròn chạm nổi lưỡng
long. Toàn bộ bài vị được sơn son thiếp bạc phú hoàn kim. Qua các nét hoa văn
có thể xác định bài vị có niên đại đầu thế kỷ XX.
(2).
Bát hương gốm: Bát hương có đường kính đáy là 13cm, cao 11cm, đường kính
miệng 27cm, chất liệu gốm, men trắng ngà, thân doãng, miệng loe vành miệng rộng.
Trên thân trang trí men lam đề tài lưỡng long tranh châu, bát hương có niên đại
thế kỳ XIX.
(3).
Long sàng: Chất liệu gỗ kích thước cao 25cm, dài 57cm, rộng 51cm. Long
sàng chân qùi tạo dáng vân cụm, cổ thắt vẽ chìm lưỡng long chầu nguyệt, sơn son
thiếp bạc phủ hoàn kim, được tạo tác ở thế kỷ XX.
(4).
Long ngai: Chất liệu gỗ, đế tạo kiểu sập thờ nhiều tầng, chân qùy dạ
cá. Trên các tầng đế chạm nổi, đề tài lưỡng long chầu nguyệt, phụng, vân tản.
Long ngai được sơn son thiếp bạc phủ hoàn kim, được tạo tác ở thế kỷ XX.
Hiện nay, tại cụm di tích, nhân
dân địa phương thường tổ chức ba ngày sự lệ lớn: ngày 25/9 âm lịch - ngày hóa của
Đức thánh Đặng Quốc Quân; ngày 04/11 âm lịch - ngày hóa của Đức thánh Trần Nhân
Tông; ngày 01/6 âm lịch - ngày hạ điền. Song theo tục lệ, dân làng thường tổ chức
ngày lễ lớn nhất trong năm vào ngày hóa kỵ của vua Trần Nhân Tông – ngày 04/11.
Lễ hội thường diễn ra trong ba ngày, ngoài phần tế lẽ còn có các trò chơi như:
đấu vật, đu, chọi gà, chèo sân đình... thu hút đông đảo du khách từ trong và
ngoài thành phố về tham gia lễ hội, tham quan và chiêm bái.
Ngày 08/10/2009, Ủy ban nhân dân thành phố ra quyết định số 2041/QĐ-UBND
công nhận Miếu và Chùa Đông Côn là Di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố.