MIẾU – CHÙA ĐÔNG NINH
(Di tích lịch sử văn hoá cấp thành phố)
-----
Miếu và Chùa Đông Ninh là hai công trình tín ngưỡng văn hoá cổ thuộc
xã Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố
khoảng 25km. Nơi đây là một trong những vùng đất cổ của huyện Tiên Lãng, có lịch
sử hình thành văn minh làng xóm và truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm từ
đầu công nguyên đến nay.
Cụm di tích Miếu và Chùa Đông Ninh có lịch
sử lâu đời, gắn liền với vùng đất, văn hóa, con người Tiên Minh, Tiên Lãng, một
biểu tượng sống động lưu giữ truyền thống văn hóa và những sinh hoạt thường
ngày trong đời sống nhân dân ở một làng xã cổ truyền của người dân đất Việt.
Miếu Đông Ninh thờ 3 vị nữ tướng họ Tạ,
Triều Trưng Vương được mang chính tên địa phương
Đông Ninh. Có nhiều sử sách lưu lại tích về các vị: Hoàng triều
Vĩnh Hựu năm thứ 5 (1739) nội các bộ lại ghi chép theo chính bản - Hoàng triều
Bảo Đại năm thứ 2 (Đinh Mão 1927) tháng 8, xã Đông Ninh lĩnh mệnh chính bản thừa
sao tế lễ). Theo ngọc phả lục 3 vị tôn thần triều Trưng Vương ở trạng Tĩnh Xuyên, xã Tân Miêng, phủ Nam Sách, đạo Hải Dương thuộc đất Giao Châu, nay là xã Tiên Minh,
huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng.
Tại đây vào thời Bắc thuộc, có một người
họ Tạ (tên Tạ Thúy) nổi lên làm quan Lang. Ông cùng vợ là bà Vũ Thị Lương sinh
hạ được 3 người con gái tài sắc, đức hạnh hơn người là Tạ Huy Thân, Tạ Ả Dáng và Tạ Đoan Dung. Tuy là phận gái, nhưng cả ba chị em
đều được cha mẹ cho theo nghiệp đèn sách, luyện rèn võ nghệ thao trường cung kiếm,
mong có ngày đền nợ nước.
Mùa xuân năm 40 cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra từ đất Mê Linh, cả ba vị
đều được Trưng Nữ Vương phong tước Công chúa nội
thị tả hữu cùng bộ tham mưu bàn việc quân cơ đồng thời trực tiếp chỉ huy cho
các cánh quân đánh giặc. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, Triều Trưng
Vương được thiết lập, khẳng định chủ quyền của đất Việt. Trưng Vương phong chức tước cho
ba nữ tướng họ Tạ: Tạ Huy Thân, tước Trinh Thục công chúa; Tạ Ả Dáng,
tước Phương Viên công chúa; Tạ Đoan Dung,
tước phong Trang
Thục công chúa.
Đồng thời được cử về vùng biển quê nhà xây dựng đồn trại biên phòng, chiêu nạp
dân phiên tán khai hoang, phục hóa, phát triển nghề nông, làm muối, đánh bắt
tôm cá, góp phần mở mang bờ cõi, lập phòng tuyến ngăn chặn giặc ngoại xâm, nạn
cướp biển. Nhờ uy đức, tài năng của ba bà dân cư trong vùng thời đó được yên ổn
làm ăn, trang ấp trù phú.
Đến năm 42 nhà Đông Hán sang nước ta đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Ba vị nữ tướng
họ Tạ cùng các tướng lĩnh đã chiến đấu dũng cảm, nhưng thế giặc mạnh, quân ta chống
đỡ không nổi.
Năm 43 cuộc khởi nghĩa bị dập tắt. Ba bà
đem quân tạm lui về quê nhà tiếp tục chống cự với giặc và
đã hy
sinh trên sông nước quê hương. Để ghi nhớ công lao của các
bà, dân trang trong vùng đã lập miếu thờ trên khu đất cao xứ Hà Lâu, thường
xuyên hương khói phụng thờ cho đến ngày nay.
Thời Tiền Lê (980-1009), Lý Xoa Kỳ là một
danh tướng nổi tiếng được vua Lê Đại Hành chỉ đạo trực tiếp dẫn một đạo quân tới
đạo Hải Dương (tục gọi là Hồng Châu phủ, Nam Sách huyệnTiên Miêng xã). Thấy địa
hình hiểm trở, ông cho lập đồn trại xây dựng thế trận đánh giặc. Tại đây, ông
được 3 vị tôn thần báo mộng, phù trợ giúp ông lập công báo nước. Sau khi dẹp
yên quân giặc, Lý Xoa Kỳ tâu với vua ra chiếu phong tước cho các vị là Trưng thần
chinh thục hiển linh công chúa/Ả Chiêu Phương Viên
hiển linh công chúa/Đoan Dung Thục Diệu hiển linh công chúa. Tặng phong mỹ tự
chung cho ba là: Diệu Quang, Thê Tĩnh, Thuận Hòa, Chinh Thục phu nhân tôn thần.
Ban sắc chỉ cho trang Đông Ninh sửa sang miếu điện, thờ cúng trong cả nước, đời
đời tế lễ dâng trang đã lập miếu phụng thờ để ghi nhớ công lao của ba bà với
đôi câu đối còn lưu truyền đến ngày nay.
Một
số di vật lưu giữ: Trước
năm 1938, làng xã Đông Ninh còn giữ đựợc 8 đạo sắc phong thuộc các đời vua: Lê
Chiêu Thống (1787); vua Tự Đức 3 (1850) và 33 (1880); vua Đồng Khánh năm thứ 2
(1887); vua Khải Định năm thứ 9 (1924). Hiện tại có một số di vật như: 3 bộ
ngai, ám, bài vị; long đình, bát biểu, bát hương, đài quả bằng gỗ được tạm thời
di chuyển vào nội thất chùa.
Chùa Đông Ninh có tên chữ ban đầu Hà Lâu Tự, nay là Đông Phúc Tự, có niên đại khoảng 400 năm. Chùa quay hướng Tây Nam, có
bố cục kiểu chữ Đinh
gồm:
5 gian bái đường, 2
gian hậu cung. Vì nóc mái kết cấu lối “giá chiêng”; có hệ thống xà thượng, xà hạ, hoành mái, hoành gian được
bào nhẵn; tòa bái đường và hậu cung kết cấu kiểu “vệt ngồi - kẻ góc”; hồi tường
làm bằng gạch vồ không trát; ba gian chính được lắp bộ cửa gỗ kiểu “thùng khung
- khung khách”.
Đây là một công trình tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Tại Chùa Đông Ninh, hiện nay còn lưu giữ một số di vật quý giá. Cụ thể:
(1). Hai thành bậc đá cỡ nhỏ đặt trước thềm nhà tiền đường gồm: Một đôi đặt ngay
lối chính tạo hình sấu đầu thú, mắt lồi, đuôi hình sóng lượn, tương tự như đôi
sấu đá ở chùa, Thiên phúc (Trà Phương, Kiến Thuy); Đôi thành bậc phía ngoài được
chạm hình mây, sóng nước thuỷ ba.
(2). Pho tượng đá: Được tạo theo lối tượng tròn được đặt ngay phía góc phải cung
chuôi vồ với trang phục gần giống một vị quân vương thất thế đi ở ẩn. Trang phục
áo cổ vạt chéo, cân đai, bối tử còn nhận rõ, tuy phần đâu và mũ có lên đã bị sửa
chữa bởi nhiều vết xây sước, thiếu cân đối so với nguyên gốc ban đầu.
(3). Bia ký: 02 di vật quý gồm: Thạch đài trụ hình khối trụ chữ nhật có kích
thước (0.97 cm x 0.23) x 4 mặt, niên hiệu nghệ thuật: Vinh Trị năm thứ 4
(1679); Bia hậu phật: niên hiệu Long Đức 4 (1732) trang trí diềm trán bia chữ
khắc còn rõ.
(4). Mộ tháp các vị sứ tổ đã có công tu dưỡng hoằng dương phật pháp tại chùa.
(5). Bộ
tượng: Tượng tam thể:
3 pho ở vị trí cao nhất biểu tượng cho Đức phật qua 3 đời: Quá khứ, hiện tại,
tương lai;
Bộ tượng Di Đà Tam Tôn; Tượng Quan
Âm Quá Hải luôn có 8 đôi tay; Bộ tượng: Ngọc Hoàng,
Nam Tào, Bắc Đẩu;
Long tượng, Cửu Long, Thích Ca sơ sinh. Ngoài ra, tại tòa bái đường còn có các tượng: Hộ thiện,
Trừng ác, Đức ông và tam tòa thánh mẫu.
Trải qua hàng trăm năm do tác động của nhiều yếu tố như thiên tai, chiến tranh… nhưng di tích vẫn giữ
được những
nét độc đáo riêng biệt. Những giá trị lịch sử của di tích
góp phần bồi dưỡng, giáo dục và phát huy truyền thống uống nước nhớ nguồn của
nhân dân ta, đặc biệt đối với thế hệ trẻ.
Hiện nay, vào
ngày 26/8 âm lịch hằng năm, tại cụm di tích Miếu và Chùa Đông Ninh, người dân địa
phương tổ chức ngày hội làng và giỗ sư tổ với nhiều hoạt động lễ hội phong phú,
đa dạng, mang đậm nét truyền thống văn hóa của nhân dân xã Tiên Minh, huyện
Tiên Lãng, thu hút đông đảo du khách từ trong và ngoài thành phố về tham gia lễ
hội, tham quan và chiêm bái.
Ngày
26/4/2006, Ủy ban nhân dân thành phố ra quyết định số 887/2006/QĐ-UBND công nhận
Miếu và Chùa Đông Ninh là Di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố.