ĐỀN KHA LÂM
(Di tích Lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia)
Đền Kha Lâm là một công trình kiến trúc nghệ thuật truyền thống, nơi tưởng niệm, ghi nhớ công đức của công chúa Chiêu Chinh con gái vua Trần Thánh Tông do dân làng Kha Lâm (nay thuộc phường Nam Sơn, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng) xây dựng. Nhân dân thường gọi đền Kha Lâm với một tên quen thuộc khác là đền Vua Bà.
Công chúa Chiêu Chinh tên thật là Trần Thị Hinh, sinh ngày 6 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258). Mẹ là Trần Thị Hương, quê ở làng Kha Lâm, cung phi của Trần Thánh Tông. Ngày còn nhỏ, Chiêu Chinh được chú Trần Nhật Duật dạy chữ, Trần Quang Khải dạy võ. Lớn lên công chúa trở thành một người văn võ toàn tài, nổi tiếng là bậc tài nữ ở kinh thành lúc bấy giờ.
Khi giặc Nguyên sang xâm lược, Chiêu Chinh về quê mẹ dựng cờ khởi nghĩa ở vùng Tây Sơn - Kha Lâm. Đội quân Tây Sơn do công chúa chỉ huy ngày càng lớn mạnh, được chiến đấu dưới quyền quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và đã lập nhiều công lớn. Năm Kỷ Mão (1279) vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Nhân Tông, khi kén phò mã, Trần Thánh Tông đã gả công chúa cho Đỗ Khắc Hàn (con trai của Đỗ Khắc Chung). Hai người chung sống với nhau không được bao lâu thì Đỗ Khắc Hàn hy sinh ở mặt trận Nghệ An. Công chúa một lòng thủ tiết thờ chồng.
Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Dần, công chúa Chiêu Chinh mất, thọ 56 tuổi. Nhân dân Kha Lâm làm lễ an táng tại nội tự chùa Kha Lâm. Sau 3 năm đưa hài cốt về lăng Bảo Đức.
Truyền ngôn ở địa phương nhắc nhiều đến công lao của công chúa Chiêu Chinh trong việc mua đất, mở điền, khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích canh tác, xây dựng xóm làng. Đặc biệt, bà là có công trong việc lập chợ bến đò, xây dựng bến thuyền, cầu cống và lập nên nhiều cánh chùa thờ phật, góp phần biến vùng đất Kha Lâm - Văn Đẩu trở thành trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội của cả vùng. Để tưởng nhớ công ơn của công chúa Chiêu Chinh, Nhân dân nơi đây đã lập nhiều đền, chùa, miếu thờ cúng bà như đền Kha Lâm, đền Kiến Vũ, đền Tây Sơn.
Đền Kha Lâm còn phối thờ các vị Trần Nhội, Thiên Lộc Đại Vương, vua Vó, vua Út- là những người có công trong ba lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của dân tộc ta.
Công trình có kiến trúc hình chữ đinh, gồm 5 năm tiền đường, 3 gian hậu cung, mái lợp ngói mũi hài nhỏ, rêu phong cổ kính, tường và hồi đều xây bằng đá phe-ra-lít. Trang trí di tích mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, đầu thế kỷ XX. Tuy sử dụng hình thức trang trí không nhiều nhưng hiệu quả thẩm mỹ đạt được khá lớn góp phần làm tăng dáng vẻ cổ kính cho công trình.
Hiện tại các di vật còn lại của di tích không nhiều, có thể kể đến như: khám thờ, tượng công chúa, 3 chiếc nhang án, tượng ba vị đại vương (chưa xác định được tên từng vị), 4 câu đối, tượng phật, chuông đồng, 2 chiếc bia đá, 2 bộ bát bửu…
Lễ hội đền Kha Lâm được tổ chức vào hai ngày lễ chính: ngày 6 tháng 2 (thánh đản), ngày 3 tháng 6 (thánh hóa). Ngày hội chính của Nhân dân diễn ra từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 2 hằng năm. Ngày mồng 4 tổ chức lễ tế yên vị sau đó tổ chức đám rước lên chùa Kha Lâm rước tượng công chúa Chiêu Chinh về đền. Trong ngày hội còn tổ chức các trò chơi dân gian như đấu vật, hát chèo, tổ tôm, cờ người…
Các tư liệu, di vật lưu giữ tại di tích là những nguồn sử liệu quý cho việc nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề lịch sử. Với các giá trị về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, Bộ Văn hóa – Thông tin và Thể thao đã ban hành Quyết định số 983/QĐ ngày 4/8/1992 công nhận đền Kha Lâm là di tích Lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.