BÀI PHỎNG VẤN
Đồng chí Nguyễn Thị Bẩy,
nguyên Ủy viên Thành ủy,
nguyên Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố
-----
Câu hỏi 1. Là người trực
tiếp chỉ đạo quá trình triển khai thí điểm mô hình bảo hiểm sức khỏe nhân dân tại
thành phố Hải Phòng, sau này trở thành một chủ trương quan trọng trong việc đảm
bảo an sinh xã hội của cả nước, xin đồng chí cho biết cơ duyên nào Hải Phòng được
Trung ương lựa chọn triển khai thí điểm chủ trương quan trọng này?
Vào thời điểm cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, thành
phố Hải Phòng tập trung thực hiện công cuộc đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cùng với nỗ lực thực hiện các chính sách đổi mới về kinh tế, thành phố đã tập
trung chỉ đạo phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe
nhân dân, thực hiện xóa đói giảm nghèo, từng bước nghiên cứu thực hiện các
chính sách xã hội trong cơ chế thị trường. Trong đó, việc tìm tòi một cơ chế nhằm
đáp ứng tốt hơn việc khám chữa bệnh cho nhân dân, cho người nghèo, cho người có
công là vấn đề lớn.
Cũng thời điểm này, đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn vì
vừa trải qua mấy chục năm chiến tranh, đồng thời lại bị bao vây cấm vận. Tình
hình đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế và thuốc trong các cơ sở y tế rất
hạn chế, làm cho các tuyến y tế cơ sở gặp nhiều khó khăn trong tổ chức hoạt động,
công suất giường bệnh đạt thấp. Để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động y tế, ngày
24/4/1989 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số
45/QĐ-HĐBT cho phép bệnh viện được phép thu một phần viện phí. Điều này, giúp
tháo gỡ khó khăn cho ngành y tế, tuy nhiên lại tạo thêm áp lực cho người dân.
Vậy cần làm thế nào để vẫn tháo gỡ được khó khăn cho ngành y
tế mà áp lực cho người dân không lớn? Đây là một câu hỏi không khỏi day dứt
trong đội ngũ lãnh đạo ngành y tế, lãnh đạo các địa phương và lãnh đạo các bệnh
viện.
Ngày 01/6/1989, sau khi nghiên cứu mô hình tại Cộng hòa Liên
bang Đức, Giáo sư Phạm Song, Bộ trưởng Bộ Y tế đã nêu ra ý tưởng về việc xây dựng
quỹ bảo hiểm y tế qua bài viết được đăng trên Báo Nhân dân với tựa đề “Hiểu và
thực hiện đúng việc thu một phần viện phí để tiến tới bảo hiểm về khám, chữa bệnh”.
Trong bài viết, Giáo sư Phạm Song tập trung phân tích về 5 yêu cầu cơ bản để thực
hiện đúng và sáng tạo chính sách mới của Chính phủ; những khó khăn của đất nước
nói chung, ngành y tế nói riêng và những lợi ích mà bảo hiểm khám, chữa bệnh
mang lại cho người dân và xã hội…
Nắm bắt được ý tưởng qua bài viết của Giáo sư Phạm Song,
lãnh đạo Sở Y tế đã báo cáo và nhận được sự nhất trí của lãnh đạo thành phố, lãnh
đạo Bộ Y tế mà trực tiếp là Giáo sư Phạm Song, Hải Phòng được chọn là đơn vị thực
hiện thí điểm, nếu thành công Bộ Y tế sẽ trình Chính Phủ triển khai nhân rộng
trong cả nước.
Câu hỏi 2. Xin đồng chí
chi biết, trong quá trình triển khai thí điểm mô hình bảo hiểm sức khỏe nhân
dân trên địa bàn thành phố đã gặp phải những khó khăn, thách thức nào?
Sau khi được Bộ Y tế và lãnh đạo thành phố nhất trí, Sở giao
đồng chí Bùi Thành Chi, khi đó là Chánh văn phòng Sở xây dựng Đề án “Nghiên cứu
xác định nội dung, phương thức triển khai bảo hiểm y tế tại thành phố Hải
Phòng”.
Nhớ lại những ngày đầu tiên triển khai thực hiện bảo hiểm sức
khỏe nhân dân tại thành phố đầy gian nan thử thách. Nhiều người chúng tôi vào
thời điểm đó nghĩ rằng khó có thể vượt qua, vì đây là điều rất mới mẻ không chỉ
ở nước ta.
Khó khăn đầu tiên
gặp phải đó là việc một số bộ, ngành trung ương thể hiện quan điểm chưa thực sự
tin tưởng vào ý tưởng của Giáo sư Phạm Song và Bộ Y tế về việc triển khai thực
hiện chủ trương bảo hiểm y tế tại Việt Nam.
Thứ hai, căn cứ
duy nhất để nghiên cứu, xây dựng Đề án là tài liệu Bảo hiểm y tế của Bang
Dusendorf, Cộng hòa Liên bang Đức và bài báo “Hiểu và thực hiện đúng việc thu một
phần viện phí để tiến tới bảo hiểm về khám, chữa bệnh” của Giáo sư Phạm Song.
Thứ ba, những khó
khăn xuất hiện trong quá trình triển khai thực hiện Quyết định số 45/QĐ-HĐBT
cho phép bệnh viện được phép thu một phần viện phí. Cùng với sự thiếu tin tưởng
của nhân dân vào sự phục vụ ở các bệnh viện.
Thứ tư, những khó
khăn chung của nền kinh tế, thu nhập của người dân và doanh nghiệp. Cùng với việc
đã có một số chính sách mới đã áp dụng trong thực tiễn hiệu quả thấp làm cho
nhân dân thiếu niềm tin.
Thứ năm, nhận thức
của cán bộ, đảng viên, nhân dân, chủ sử dụng lao động, kể cả một bộ phận cán bộ
lãnh đạo các cấp đối với một vấn đề rất mới mẻ, chưa có tiền lệ… Một số lãnh đạo
ngành Y tế, cán bộ quản lý bệnh viện cũng muốn thu phí trực tiếp của bệnh nhân
mà không qua Bảo hiểm y tế.
Câu hỏi 3. Xin đồng chí
cho biết những kết quả mà thành phố Hải Phòng đạt được sau quá trình triển khai
thực hiện thí điểm mô hình bảo hiểm sức khỏe nhân dân?
Ngày 30/6/1989, Giáo sư Phạm Song, Bộ trưởng Bộ Y tế và lãnh
đạo một số Vụ thuộc Bộ Y tế, Bộ Tài chính và Ban Khoa giáo Trung ương đã về Hải
Phòng, cùng lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố và các sở, ban, ngành, đoàn thể
liên quan nghe báo cáo về Đề án. Sau khi tiếp thu ý kiến đóng góp của đại biểu
tham gia tại Hội nghị, Ủy ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo Sở Y tế tiếp thu,
hoàn thiện.
Ngày 9/9/1989, Ban Thường vụ Thành ủy đã thông qua Đề án và
cho phép triển khai thực hiện thí điểm trên địa bàn thành phố. Ngày 23/9/1989, Ủy
ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 976/QĐ-TCCQ thành lập Trung tâm Bảo
hiểm sức khỏe thành phố và bổ nhiệm đồng chí Bùi Thành Chi, Chánh Văn phòng Sở
Y tế làm Giám đốc Trung tâm. Đây là tổ chức Bảo hiểm y tế đầu tiên sau chỉ đạo
của Thành ủy. Ngày 27/9/1989, Ủy ban nhân dân thành phố tổ chức hội nghị công bố
các quyết định về việc triển khai công tác bảo hiểm y tế, tập huấn cho cán bộ
lãnh đạo các sở, ban, ngành, đoàn thể thành phố và lãnh đạo các quận, huyện. Đồng
thời, triển khai thí điểm bảo hiểm y tế cho nhân dân 2 huyện Thủy Nguyên, An
Lão và 30 xí nghiệp, cơ quan trong toàn thành phố. Ngày 18/5/1990, Ủy ban nhân
dân thành phố ban hành Chỉ thị số 30/CT-UBND về việc mở rộng sử nghiệp Bảo hiểm
y tế cho Nhân dân thành phố.
Sau hơn 3 năm thực hiện
thí điểm, công tác bảo hiểm y tế cho nhân dân trên địa bàn thành phố đã đạt được
những kết quả bước đầu hết sức quan trọng, cụ thể như sau:
(i). Số quận, huyện triển khai thực hiện bảo hiểm y tế đã
tăng từ 2/12 năm 1989 lên 9/12 vào năm 1992 và đạt 12/12 vào thời điểm
31/10/1993.
(ii). Tổng số người tham gia là 58.127 người, chiếm 4,2% tổng
dân số năm 1990 tăng lên 150.326 người, chiếm 10,74% dân số năm 1992 và đạt
360.672 người, chiếm 24% dân số vào thời điểm 31/10/1993.
(iii). Số người được thanh toán viện phí bằng bảo hiểm y tế
đạt 4.070 người vào năm 1990, tăng lên 11.126 người vào thời điểm 31/10/1993 và
đạt 87.500 người vào thời điểm 31/10/1993, đồng thời mở rộng diện thanh toán
cho người khám, chữa bệnh ngoại trú.
(iv). Số cơ sở y tế ký hợp đồng bảo hiểm y tế năm 1990 là 05
đơn vị, tăng lên 15 đơn vị vào năm 1992 và đạt 44 đơn vị (21 bệnh viện, 23
phòng khám đa khoa) vào thời điểm 31/10/1993.
(v). Năm 1993, Đề tài “Nghiên cứu xác định nội dung và
phương thức Bảo hiểm y tế tại thành phố Hải Phòng” được tặng Giải thưởng khoa học
Nguyễn Bỉnh Khiêm của thành phố Hải Phòng lần thứ nhất (giai đoạn 1986 – 1993).
(vi). Ngày 24/9/1991,
Hội đồng Bộ trưởng tổ chức Hội nghị chuyên đề về Bảo hiểm y tế do Phó Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Phan Văn Khải chủ trì, nghe Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân thành
phố và Giám đốc Bảo hiểm y tế thành phố Hải Phòng báo cáo kết quả triển khai
thí điểm Bảo hiểm y tế tại Hải Phòng. Từ kết quả thực tiễn của Hải Phòng, ngày
15/8/1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt đã ký Nghị định số
299/NĐ-HĐBT ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế và triển khai thực hiện trong toàn
quốc.
Có thể nói, Bảo hiểm y tế Hải Phòng là người lính tiên
phong, đi đầu trong sự nghiệp Bảo hiểm y tế Việt Nam, đóng góp tích cực cho sự
ra đời và phát triển của Bảo hiểm y tế nói riêng, chính sách an sinh xã hội nói
chung trong cả nước.
Sinh thời Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Song rất tự hào vì trong thời kỳ công
tác của mình đã cùng với Thành ủy Hải Phòng tham mưu triển khai chỉ đạo thí điểm
thành công chủ trương quan trọng này, mà ngày nay đã trở thành một trong những
trụ cột quan trọng của an sinh xã hội, góp phần vào sự phát triển chung của
thành phố Hải Phòng và cả nước./.