BÀI PHỎNG VẤN
Đồng chí Nguyễn Đình
Bích, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy,
nguyên Phó Chủ tịch Thường
trực Hội đồng nhân dân thành phố
-----
Câu hỏi 1. Phát triển
kinh tế biển của thành phố Hải Phòng trong những năm qua đã đạt được một số kết
quả khả quan, đóng góp quan trọng vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội của
thành phố, xin đồng chí cho biết việc xác lập và một số kết quả triển khai thực
hiện chủ trương phát triển kinh tế biển của thành phố theo cảm nhận của đồng
chí?
Thành phố Hải Phòng có lợi thế về biển với bờ biển dài, nằm ở
trung tâm duyên hải Bắc bộ, có ngư trường lớn với 2 huyện đảo Cát Hải và Bạch
Long Vỹ, có nhiều cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu thủy, tiềm năng lấn biển phát
triển các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, tài nguyên du lịch biển, truyền
thống phát triển cảng biển hàng đầu Việt Nam.
Ngày 05/8/2003, Bộ
Chính trị (khóa IX) ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW về xây dựng và phát triển
thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xác định:
“từ nay đến năm 2020, thành phố phải tập trung xây dựng và phát triển để
Hải Phòng xứng đáng là thành phố cảng, công nghiệp hiện đại; …; đầu mối giao
thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, có cảng nước sâu
(nếu điều kiện kỹ thuật cho phép);…; một trọng điểm phát triển kinh tế biển;…
trung tâm dịch vụ, du lịch, thuỷ sản, giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc Bộ…”.
Điều đó đã xác lập và tạo nhiều cơ hội
để Hải Phòng bứt phá từ kinh tế biển.
Thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW, cùng với việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày
9/2/2007 của BCH Trung ương Đảng (khóa 10) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020; Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa
12 “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045”; Kết luận số 72-KL/TW, ngày 10/10/2013 của Bộ Chính trị về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 32-NQ/TW, ngày 05-8-2003 của Bộ Chính
trị khoá IX “Về xây dựng và phát triển thành phố Hải Phòng trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” và gần đây nhất là Nghị quyết số 45-NQ/TW
ngày 24/01/2019 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “xây dựng và phát triển thành phố
Hải Phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, trong những năm qua kinh tế biển
của Hải Phòng đã đạt được những thành tựu hết sức khả quan. Hải Phòng tiếp tục khẳng định
là một trọng điểm phát triển kinh tế biển của cả nước. Có thể điểm lại một số nét chính như sau:
Cảng biển
ở Hải Phòng lớn nhất miền Bắc, là một trong hai khu vực cảng biển đặc biệt của
cả nước, có khả năng kết nối trực tiếp tới các châu lục và khu vực Tây Nam
Trung Quốc. Đến nay, hệ thống cảng biển của thành
phố gồm 05 khu bến chính với 52 cảng biển thuộc danh mục cảng biển Việt Nam (với
98 cầu, dài khoảng 14.178,5m); nổi bật là Cảng cửa
ngõ quốc tế Lạch Huyện có khả năng tiếp nhận tàu container lên tới trên 200.000 DWT. Sản lượng
hàng qua cảng biển Hải Phòng năm 2022 đạt 168 triệu tấn, chiếm 22,9% tổng hàng
hoá thông qua cảng biển cả nước.
Hải Phòng là trung
tâm ngành vận tải biển và đóng mới, sửa chữa tàu biển lớn nhất của các nước với
đội tầu Viễn dương, tàu chuyên dùng và các nhà máy đóng tàu, cơ sở sửa được đầu
tư hiện đại. Sau một số năm hoạt động cầm chừng, trong hai năm gần đây, cùng với
việc sửa chữa tàu thuyền, hoạt động đóng tàu tại các cơ sở đóng tàu tại Hải
Phòng đang dần hồi phục mạnh mẽ với nhiều đơn đặt hàng của các chủ tàu không chỉ
trong nước, mà cả nước ngoài, trong đó tàu chuyên dụng, hiện đại, trọng tải lớn,
có tàu trọng tải toàn phần lên đến 65.000DWT, để hoạt động trên tất cả các vùng
biển, cảng quốc tế. Đây là minh chứng về độ tin cậy và sự vượt trôij của năng lực
kỹ thuật, tay nghề và trình độ công nghệ của ngành đóng tàu Hải Phòng giàu truyền
thống.
Phát triển thủy sản đồng bộ, nuôi trồng, sản xuất giống, thức
ăn thủy sản kết hợp dịch vụ chế biến xuất khẩu, hậu cần nghề cá… Diện tích nuôi
trồng thủy sản năm 2023 đạt 9.000 ha (giảm 3.850 ha so với năm 2019 (12.850 ha)
với sản lượng 78,4 nghìn tấn (năm 2019 đạt 68,024 nghìn tấn) tương ứng giai đoạn
2019 - 2023 bình quân giảm 5,99%/năm về diện tích và tăng 3,05%/năm về sản lượng.
Tổ chức sản xuất trên biển theo mô hình
nghiệp đoàn, tập đoàn, liên tập đoàn, tổ, đội đoàn kết sản xuất và mô hình đồng
quản lý đối với vùng ven bờ. Hình thành doanh nghiệp đầu tư đội tàu khai thác
thủy sản vùng biển xa bờ. Chú trọng thực hiện quy định về cấm đánh bắt
thủy sản bằng phương tiện mang tính hủy diệt…
Phát triển mạnh khoa học – công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực
biển chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của trung tâm dịch vụ cảng biển, hàng hải
và vận tại biển lớn của cả nước. Hiện nay, trên địa bàn thành phố có Trường Đại
học Hàng hải Việt Nam – trường trọng điểm cấp quốc gia và gần 10 trường đại học,
cao đẳng, trung cấp đào tạo nguồn nhân lực biển và nhiều cơ sở nghiên cứu về biển,
tài nguyên biển: Viện y học biển, Viện hải sản, Viện nghiên cứu thủy sản 1, Viện
tài nguyên môi trường biển, Trung tâm quốc gia giống thủy sản miền Bắc, …
Thành lập khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải với các cơ chế, chính sách ưu đãi đầu
tư đột phá đã tạo sự thành công trong thu hút đầu tư của thành phố. Hiện nay,
khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải được xem là khu kinh tế ven biển thành công nhất
cả nước, có sức hấp dẫn đặc biệt khi có hệ thống cảng biển đồng bộ, đặc biệt là
Cảng nước sâu Lạch Huyện, kết nối thuận tiện với Cảng hàng không quốc tế Cát Bi
và mạng lưới giao thông đường bộ (hầu hết là đường cao tốc) tỏa đi khắp các tỉnh,
thành phố trong vùng, miền Bắc, cả nước. Tính đến hết năm 2023, khu kinh tế
Đình Vũ - Cát Hải đã thu hút được khoảng 32 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư, trở
thành cứ điểm của nhiều nhà đầu tư lớn, tham gia sâu chuỗi giá trị toàn cầu, trở
thành một điểm sáng quan trọng trong thu hút đầu tư của thành phố Hải Phòng với
các dự án lớn, như: Tập đoàn LG (tổng vốn 9,24 tỷ USD); VinFast (khoảng
7,6 tỷ USD), Brigdestone (1,2 tỷ USD), Regina Miracle International (1 tỷ USD),
Pegatron (gần 900 triệu USD)… Tăng cường thu
hút, tập trung huy động nguồn lực triển khai xây dựng Khu kinh tế ven biển phía
Nam Hải Phòng với Cảng Nam Đồ Sơn; Khu công nghiệp và khu phi thuế quan Xuân Cầu…
Đã triển khai nhiều chương
trình, dự án để thực hiện mục tiêu xây dựng, phát triển Cát Bà và Đồ Sơn trở
thành trung tâm du lịch quốc tế. Thu hút nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn đầu
tư các dự án du lịch tại Cát Bà và Đồ Sơn như: Tập đoàn Sungroup, Tập đoàn
Flamingo, Tập đoàn Geleximco, Tập đoàn BRG, Tập đoàn Nam Cường, Công ty Cổ phần
Trường Bình Minh, Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển du lịch Vinaconex-ITC...
Thành phố tập trung phát triển
nhiều công trình kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, kết nối các trung tâm kinh
tế lớn trong vùng Đồng bằng sông Hồng, các khu công nghiệp, khu đô thị, các
vùng biển và cảng biển, nâng cao năng lực vận tải: Dự án đường bộ ven biển và
các dự án xây dựng đường kết nối giữa đường bộ ven biển và các tuyến đường trục
trên địa bàn thành phố; các dự án đầu tư xây dựng công trình cầu kết nối Hải
Phòng với các địa phương: cầu Bến Rừng, cầu Lại Xuân nối huyện Thủy Nguyên (Hải
Phòng) với tỉnh Quảng Ninh, cầu Quang Thanh nối huyện An Lão (Hải Phòng) và thị
xã Kinh Môn (tỉnh Hải Dương), cầu sông Hóa nối huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) và
huyện Thái Thụy (tỉnh Thái Bình), cầu Rào, cầu Nguyễn Trãi, cầu Hoàng Văn Thụ;
các Dự án tại Cảng hàng không quốc tế Cát Bi: Mở rộng sân đỗ máy bay; xây dựng
nhà ga hàng hóa và xây dựng nhà ga hành khách số 2; các tuyến đường vành đai
thành phố...
Tập trung đầu tư để phát triển một số trường cao đẳng, trung cấp trên địa
bàn thành phố thành trường chất lượng cao, bảo đảm năng lực đào tạo lao động chất
lượng cao, có kỹ năng nghề ở một số nghề trọng điểm, có lợi thế như kinh tế biển,
hàng hải, vận tải biển, dịch vụ logistics, đóng tàu, cơ khí, chế biến, chế tạo,
nuôi trồng thủy, hải sản.
Câu hỏi 2. Xin đồng chí
cho biết cơ sở để thành phố triển khai thực hiện phương châm “Đầu tư cho an sinh xã hội phải đi trước so với tốc độ phát triển
kinh tế” và một số kết quả nổi bật trong đảm bảo an sinh xã hội của thành phố
thời gian qua?
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đảng bộ
và Nhân dân thành phố Hải Phòng về xây dựng và phát triển thành phố để không ngừng
nâng cao đời sống Nhân dân, giai đoạn 2010 – 2015, mặc dù còn gặp nhiều khó
khăn, song lãnh đạo thành phố đã tập trung triển khai thực hiện một số chủ
trương, cơ chế, chính sách liên quan đến các đối tượng chính sách xã hội trên địa
bàn thành phố, trọng tâm là đối tượng người có công với cách mạng, thương binh,
bệnh binh, hộ nghèo, hộ cận nghèo… Mức hỗ trợ của thành phố giai đoạn này, tuy
chưa cao, song đã thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo thành phố đối với vấn đề an
sinh xã hội.
Bước vào giai đoạn 2015 – 2020, kinh tế - xã hội của thành
phố cơ bản đã có phát triển khá ổn định, thành phố tiếp tục mở rộng đối tượng
và các chính sách, tiêu biểu như: tăng mức hỗ trợ đối với các đối tượng xã hội,
người có công với cách mạng, thương binh, bệnh binh; đẩy mạnh thực hiện xóa
đói, giảm nghèo; xóa nhà tranh, nhà tạm, cải thiện điều kiện sống; hỗ trợ vay vốn
để phát triển kinh tế thoát nghèo… Thực hiện chủ trương của Thành ủy, Hội đồng nhân dân thành
phố đã ban hành nhiều nghị quyết về an sinh xã hội, đặc biệt là Nghị quyết về
nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội cho các đối tượng chính sách, gấp 1,4 lần quy định
của Chính phủ; Nghị quyết về cơ chế cấp gạch, xi măng, hỗ trợ tiền để xây dựng,
sửa chữa nhà ở cho các gia đình chính sách. Trong giai đoạn 2015 - 2020, thành
phố đã chi 1.438 tỷ đồng tặng quà cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, hộ
nghèo vào các dịp lễ, tết (mức quà tặng năm 2020 đạt 04 triệu đồng cho mỗi gia
đình người có công, tăng gấp 5,6 lần năm 2015). Tỷ lệ
hộ nghèo giảm liên tục qua các năm, từ 3,86% năm 2015 xuống còn 0,22%
năm 2020, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XV đề ra. Thu
nhập bình quân đầu người tăng dần qua các năm, năm 2015 là 4,23 triệu đồng/người/tháng,
năm 2020 đạt 5,97 triệu đồng/người/tháng, gấp 1,41 lần năm 2015.
Bên
cạnh đó, thành phố đã dành nguồn lực lớn để nâng cao điều kiện sống của người
dân với các chương trình xây dựng nông thôn mới, chỉnh trang đô thị, cải tạo
chung cư cũ, xuống cấp, hè, đường, ngõ, phố; vệ sinh môi trường, xử lý rác thải,
bảo vệ nguồn nước, xây dựng công viên cây xanh, khu vui chơi, giải trí… Riêng
giai đoạn 2021 - 2025, thành phố đã bố trí 15.475 tỷ đồng cho chương trình xây
dựng xã nông thôn mới kiểu mẫu.
Kết
quả đó, được Trung ương và các tỉnh, thành phố bạn; cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân thành phố ghi nhận, đánh giá cao. Trên cơ sở đánh giá kết
quả thực tiễn triển khai, tại Văn kiện Đại hội XVI Đảng bộ thành phố, nhiệm kỳ
2020 – 2025, đã khẳng định chủ trương
“Đầu tư cho an sinh xã hội phải đi trước một bước so với tốc độ phát triển kinh
tế” là một chủ trương đúng đắn và cần phải tiếp tục được triển khai mở rộng
trong thời gian tới.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố, năm 2022, Hội
đồng nhân dân thành phố đã ban hành Nghị quyết quy định mức tặng quà cho các
gia đình chính sách, người có công và những trường hợp đặc biệt khó khăn trên địa
bàn nhân dịp các ngày lễ, Tết. Với mức chi cao hơn hầu hết các địa phương trong
cả nước, nghị quyết được đánh giá là sự bảo đảm cho tính bền vững của cơ chế,
chính sách về an sinh xã hội trên địa bàn. Theo đó, hàng năm, thành phố
Hải Phòng dành khoảng 580 tỷ đồng/năm để tặng quà gồm tiền mặt và hiện vật nhân
dịp Tết Nguyên đán; ngày Thương binh - Liệt sĩ 27/7; ngày Quốc khánh 2/9.
Chính sách ưu việt của thành phố có thời gian áp dụng từ 01/01/2023 đến 31/12/2026.
Kết
quả trên đã góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân thành phố với Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố;
cấp ủy, chính quyền các cấp trên địa bàn thành phố, tạo sự đồng thuận cao trong
nhân dân nhằm tạo khí thế, động lực để xây dựng thành công thành phố Hải Phòng
theo tinh thần Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) và Kết luận số
96-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XIII)./.