MIẾU
- CHÙA PHÚ KÊ
(Di
tích lịch sử văn hóa cấp thành phố)
-----
Trước năm 1945, Phú Kê là tên tổng thuộc
huyện Tiên Lãng, tỉnh Kiến An, nay là khu dân cư số 1 thuộc thị trấn Tiên Lãng,
huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Đây là một làng quê có vẻ đẹp trù phú,
giàu nét văn hóa cổ truyền Việt Nam. Ca dao xưa tả cảnh làng thôn Phú Kê: Giếng
Phú Kê vừa trong vừa mát/ Đường Phú Kê gạch lát dễ đi.
Miếu Phú Kê toạ lạc trên gò
đất hình vuông ở bên đầm Lôi Đàm thờ 4 vị Thành hoàng cùng một tên hiệu là “Đại
Càn Quốc Gia Nam Hải” tứ vị thượng đẳng thần, có công giúp vua Trần Anh Tông và
Lê Thánh Tông đánh giặc Chiêm Thành. Tên húy là Hương, Thai, Đệ, Hồng. Theo
thần tích tại Đền Cờn xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đây có thể
là mẹ vua Tống Đế Bính và các phi tần. Vẫn theo thần tích có hai vị sinh ngày
4/01 và 10/4, hai vị khác sinh ngày 12/11, cả 4 vị đều cùng hóa ngày 16/8 âm lịch.
Hiển thánh đời vua Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long (1293 – 1314), có công âm
phù vua Trần Anh Tông và Lê Thánh Tông đánh giặc Chiêm. Cả 4 vị đều được thờ bằng
Ngai và Bài vị. Hiện, Miếu còn giữ được 14 sắc phong của 8 đời Vua nhà Lê. Sắc
có niên hiệu sớm nhất thuộc đời Lê Thần Tông, niên hiệu Vĩnh Tộ 3 (1621). Sắc
sau cùng thuộc đời Vua Lê Cảnh Hưng 44 (1784). Trước năm 1938, làng Phú Kê còn
giữ được 9 sắc phong (chưa rõ nội dung).
Miếu trước đây là 3 tòa kiến trúc: Tòa
bái đường, 3 gian hậu cung kiểu chữ Đinh. Ngoài cùng là 5 gian Tiền tế: sát đầm
nước ngọt lớn, vốn là di sót của một dòng sông cổ có tên bến Vua. Trước sân miếu
lát gạch, có hai cột trụ, nóc trang trí kiểu đèn lồng. Ý tưởng xây dựng của người
xưa là mặt chính hướng ra bến nước, cổng là hai cột trụ để vào sân được đặt sát
bến Vua như chuẩn bị đón du thần ngay từ mép nước bước lên.
Do nhiều biến cố của lịch sử, ngôi miếu
bị tàn phá tòa tiền tế, chỉ còn lại nhà bái đường và hậu cung, bố cục theo kiểu
chữ nhị, mái lợp ngói - tường hồi bít đốc. Năm 2001, miếu được tu tạo trên nền
móng cũ trở thành một chỉnh thể bề thế, vững chắc mà không phá vỡ những quy phạm
của một công trình cổ. Kết hợp hài hòa giữa vật liệu truyền thống và hiện đại;
đắp ve trên bờ nóc mái, đầu mái đạo, hậu cung được nâng cao kiểu “chồng diêm -
nóc các”. Cổng tam quan quay hướng Đông trông ra con đường làng dẫn từ Đình,
chùa, đến ngôi miếu tạo nên sắc thái riêng của cụm di tích bao gồm chùa, miếu,
cổng tam quan. Ngay phía sân trong cổng tam quan còn thấy duy nhất 1 tấm bia
liên quan đến lần tu tạo sửa chữa di tích vào đầu thế kỷ XX có nhan đề: Tu tạo
miếu Vũ - năm Thành Thái 13 (1902).
Chùa Phú Kê tên chữ là Sùng Ân tự, được xây dựng trên gò đất cao diện tích gần 1.000 mét vuông,
cảnh quan rộng rãi, mát mẻ do có nhiều cây cổ thụ. Hiện tại
chưa biết rõ niên đại xây dựng ngôi chùa bao giờ nhưng tựa bản dập văn bia thì
chùa đã được tu tạo vào năm Vĩnh Trị thứ 5, đời vua Lê Huy Tông (1680) chứng tỏ
ngôi chùa có từ rất sớm (nửa đầu thế kỷ XVII).
Chùa Phú Kê được xây dựng từ thời
Lý và đã từng được chọn làm nơi đặt kho quân lương của đạo quân nhà Trần do tướng
quân Trần Quốc Thành chỉ huy. Sau nhiều năm bị xuống cấp do chiến tranh và thời
gian, vào năm 2018, chùa đã được tiến hành trùng tu với quy mô lớn. Ngày
13/10/2019, lễ thượng lương (cất nóc) ngôi Đại Hùng Bảo Điện của chùa đã được tổ
chức long trọng, đánh dấu sự phục hồi của di tích này.
Theo truyền ngôn của dân làng, ngày xưa chùa Sùng Ân có kiến trúc độc đáo với
mái 9 nóc, ao 5 góc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp chùa đã bị hủy hoại khu
chùa 9 nóc. Thập niên 80 của thế kỷ XX, chùa được tu dựng trên nền đất cũ với
quy mô nhỏ hơn nhiều so với hiện trạng ban đầu. Chùa có bố cục kiểu chữ đinh, gồm
3 gian vì gỗ với tổng số 16 cột gỗ lim theo kiểu “tiền kẻ - hậu bẩy”; kết cấu
vì nóc mái kiểu “giá chiêng biến thể”; mái chùa lợp ngói ta 2 lớp; tường hồi
xây cất theo lối “bít đốc- bổ trự”; cửa gỗ kiểu “thượng song - hạ bàn” đặt trên
ngưỡng quay theo trụ, tương tự nhiều công trình khác trong vùng; chính giữa bề
nóc mái gắn tên chữ “Sùng Ân tự” tên gọi từ cổ xưa của chùa Phú Kê.
Với quy mô kiến trúc vừa phải, nhưng di tích còn bảo lưu
được nhiều pho tượng và một số đồ thờ tự đã hàm chứa giá trị đích thực của ngôi
chùa mang đầy cảm xúc sáng tạo nghệ thuật. Cụ thể:
(1). Tượng: Ba pho tượng Tam Thế, bộ Di Đà Tam Tôn; tượng Đức Di lặc; Quan
Âm, Quan âm Nam Hải; Kim Đồng - Ngọc Nữ, tượng Đức Ông…
Hàng tượng Tam thế, gồm 3 pho ngồi ngang nhau trên vị trí cao nhất Tòa phật
điện, tượng trưng cho chư phật thuộc về ba đời: quá khứ - hiện tại và vị lai.
Hàng tượng thứ hai là bộ Di Đà Tam tôn, nổi bật trong số đó có hai vị Quan
âm đứng trên đài sen, đôi tay đang thuyết pháp, cùng pho tượng A Di đà trung
tâm của bộ Di Đà Tam tôn.
(2). Nhang án tiền: chạm nổi với nhiều mảng đề tài được khuôn theo từng ô
chữ nhật, hình rồng vuốt râu, phượng déo cánh, rùa đội lá sen... Rồng mang nét
nghệ thuật cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
(3). Đồ đồng: 02 chiếc bát hương, cao 30cm; bộ tam sự (Rùa, hạc và lư đồng); chuông cao 79, đúc theo nghệ thuật Nguyễn thế
kỷ XX.
(4). Câu đối gỗ: 03 đôi. Trang trí cửa võng: Chạm thủng đề tài Long chầu -
phượng déo, mai điểu, được sơn thiếp rực rỡ, được lắp giữa hai cây cột cái lối
vào cung chuôi vồ.
(5). Những tấm Bia cổ: Bia
niên hiệu Dương Đức 2, triều vua Lê Gia Tông 1673, tạc chân dung ông bà Nguyễn
Hữu Trí và vợ là Nguyễn Thị Dung đã không tiếc tiền của, dốc tâm làm việc thiện,
đã bỏ 100 quan tiền hưng công làm thềm nhà thượng điện. Công việc hoàn tất, thấy
đền miếu làng còn nhỏ, ông bà lại xuất 170 quan tiền mua gỗ tốt về dựng đền, miếu.
Tổng số tiền công đức là 270 quan. Quả phúc đã tu tròn, dân làng suy tôn ông bà
là hậu Phật, kỵ giỗ vào 15/11 hàng năm. Bia Dương Đức 5 (1674). Hậu Phật bia ký
- Thịnh Đức 5 (1657): Trang trí trán, hình hoa cúc mãn khai, thủy ba rồng chầu
mặt trời nhật, nghệ thuật Lê Trung Hưng thế kỷ XVII. Hậu Phật kia ký: Chính Hòa
5 (1688). Thạch đại trụ bia ký: Có hai cấp hình trụ khối chữ nhật, niên hiệu
Chính Hòa nguyên niên. Bia ký niên hiệu Tự Đức thứ 17, ghi nhớ việc di dời làng
về phía Nam Hoàng triều Tự Đức (1864).
Cụm di tích Miếu - Chùa Phú Kê là một
quần thể di tích văn hóa tâm linh, nơi hàm chứa nhiều giá trị lịch sử - văn hóa
của cộng đồng dân cư địa phương. Hằng năm, mỗi dịp Xuân về làng Phú Kê lại mở hội
truyền thống với nhiều hoạt động phong phú đa dạng: lễ tế, rước sách, hội thi đấu
vật, đấu cờ tướng, cờ người… thu hút khá đông du khách thập phương cùng tham
gia.
Ngày 28/01/2005, Ủy ban nhân dân thành phố ra quyết định
số 178/QĐ-UB công nhận Miếu và Chùa Phú Kê là Di tích lịch sử văn hóa cấp thành
phố.