ĐÌNH – CHÙA TIỂU TRÀ
(Di tích Lịch sử cấp thành phố)
Đình – chùa Tiểu Trà là những công trình kiến trúc văn hoá tâm linh, tín ngưỡng cổ truyền của Nhân dân làng Tiểu Trà, thuộc xã Hưng Đạo, huyện Kiến Thuỵ (nay là phường Hưng Đạo, quận Dương Kinh), thành phố Hải Phòng. Ngoài mang tên địa phương như trên, chùa Tiểu Trà còn có tên chữ là Khánh Long tự.
Trong cuốn phả lục “Nam Hải tôn thần”, bản dịch thần phả Thành hoàng Nam Hải Đại vương được tôn thờ tại đình Tiểu Trà do các cụ Đồng Văn Xá và Đỗ Viết Tâm – người địa phương dịch và biên soạn năm 1993; Thành hoàng làng Tiểu Trà tên huý là Hải Công, quê ở Nam Mai, châu Bố Chính. Cách đây gần 2300 năm, ở thời Hùng vương thứ 18, vị vua trực tiếp cai quản nước Văn Lang lúc bấy giờ là Hùng Duệ Vương (năm 257 trước công nguyên) ở vùng cửa biển thuộc phường Nam Mai - châu Bố Chính. Ông Phạm Xuyến và bà Phùng Thị Nguyên, làm nghề chài lưới, tu nhân tích đức, khi tuổi đã cao, mới được trời ban phúc có thai 12 tháng để đến ngày 10 tháng 2 năm Canh Dần sinh ra cậu con trai thần phong tuấn tú; đặt tên là Hải Công (tức là nhờ công của biển mà mới có người con khôi kỳ mãn nguyện). Lớn lên đi khắp đó đây để tầm sư học đạo, đọc văn luyện võ, nên tài lược thao, thiên văn địa lý, lục giáp thần phù đều tinh thông nổi tiếng. Hải Công đến núi Tản Viên thuộc đạo Sơn Tây để kết giao với 3 anh em nhà Sơn Thánh đều là những anh hùng hào kiệt; sau đều được vào triều nhận việc giúp vua. Hải Công chỉ huy một trong bốn đạo quân của triều đình; có công phò vua Hùng Duệ Vương trừ thiên tai dịch bệnh, dẹp tan ngoại xâm Thục Vương – tức Ai Lao - và dạy bảo thần dân An Cố làm ăn thịnh vượng, vua đã truy phong Ngài là: Nam Hải Đại vương, thượng đẳng phúc thần. Các triều đại tiền Lý, hậu Lý, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn gia phong cấp sắc chỉ với mỹ tự ca ngợi công đức của ngài; coi ngài là bậc khai sáng Hùng triều, hộ quốc, ty dân, thượng đẳng tôn thần Nam Hải Đại vương.
Theo truyền ngôn, đình Tiểu Trà được xây dựng từ thế kỷ thứ XV, trước đây là một công trình kiến trúc đồ sộ có cấu trúc hình chữ Nhị (=), gồm 5 gian bái đường, 3 gian hậu cung theo kiểu chéo đao tàu góc; có hệ thống ván sàn. Đặc biệt, trong đình Tiểu Trà trước đây có nhiều đồ thờ tự, tế khí có giá trị về mỹ thuật. Chính vì vậy, ở vùng Kiến Thuỵ đến ngày nay còn truyền tụng trong dân gian câu ca khen ngợi “Lớn đình Vàng, sang đình Tiểu”. Do chiến tranh và thời tiết, đến năm 1969, ngôi đình xuống cấp nặng. Mặt khác, trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, địa phương Tiểu Trà có nhiều cơ quan nhà nước và đơn vị bộ đội sơ tán, đóng quân; nơi đây có thể là mục tiêu oanh tạc của kẻ thù. Vì vậy, Nhân dân Tiểu Trà đã dỡ đình, chỉ còn lại hai gian chuôi vồ. Vật liệu được chuyển về làm các công trình phúc lợi khác của địa phương. Năm 1992, với ý thức “uống nước nhớ nguồn”, Nhân dân địa phương đã tu bổ, sửa chữa lại phần hậu cung còn lại và đến năm 1999 đã phục dựng lại toà bái đường khang trang, to đẹp như ngày nay.
Toà bái đường đình Tiểu Trà nối liền ăn khớp với phần hậu cung cũ của ngôi đình, tạo thành kiến trúc chữ Đinh, 5 gian tiền đường và 2 gian hậu cung. Đình quay hướng Tây, trông ra một cánh đồng rộng. Kết cấu khung xương đình làm bằng vật liệu bê tông cốt thép. Các bộ vì kéo làm theo kiểu thức thuận chồng, chồng rường giá chiêng. Tuy được làm bằng vật liệu hiện đại song các con chồng, thuận cũng được trang trí theo kiểu truyền thống với những lá lật đắp nổi mềm mại, kê trên các đấu hình bông sen cách điệu. Mái đình lợp ngói mũi phẳng và đều. Đỉnh nóc đình trên bờ nóc được đắp lưỡng long chầu nguyệt. Cuối hai bờ nóc đắp con kìm, chân đạp lên mái đình, đuôi uốn cong thành những vòng tròn về phía sau; trang trí kiểu thuỷ quái Macara.
Khuôn viên cả đình và chùa Tiểu Trà hiện gần như còn nguyên vẹn, diện tích của đình tới 1,7 mẫu Bắc Bộ. Sân đình được làm bằng bê tông rộng rãi. Phía góc cuối vườn đình còn cây đa cổ thụ gần 300 năm tuổi.
Toàn bộ công trình đình Tiểu Trà tuy mới được phục dựng bằng chất liệu mới; song do được làm theo quy thức cổ truyền và được các nghệ nhân trang trí, tạo tác khéo léo. Đối với đình Tiểu Trà, sự sang trọng quý giá thành nổi tiếng chính là nhờ những đồ thờ tự, tế khí được bài trí trong đình còn được bảo tồn khá phong phú, đa dạng, có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, nghệ thuật cao. Theo người dân địa phương, trước đây đình Tiểu Trà có cả một bộ đồ thờ đặt tại gian cung giữa được làm bằng sơn mài khảm trai, làm vào đời vua Thành Thái (1889-1907). Chính vì vậy, đình Tiểu Trà đang là một công trình văn hoá, một biểu tượng vinh dự, tự hào của người dân địa phương.
Đình Tiểu Trà còn lưu giữ được khá nhiều di vật có giá trị lịch sử và mỹ thuật đặc sắc:
1. Bộ tóc: Dài 0,4 m, được để trong hộp kính; truyền ngôn cho rằng đây chính là bộ tóc của Thành hoàng làng.
2. Bộ triều phục của Thành hoàng để trong hòm gỗ.
3. Đũa ngà voi bịt vàng một đầu, dài 30cm.
4. Đũa sơn son thếp vàng bằng gỗ quý, dài 37cm, gồm 2 đôi để trong hộp
gỗ sơn son.
5. Tượng Thành hoàng ngồi trong ngai cao 1,2m.
6. Long đình: kích thước 2,75m x 0,93m, chân quỳ dạ cá
7. Nhang án ô sa, kích thước cao1,18m, rộng 1,28m, dài 1,83m sơn son thếp vàng
8. Long ngai đặt trong long đình, kích thước cao 82cm, rộng 58cm, sâu 50 cm
9. Bộ ngũ sự bằng đồng thau, gồm 5 mâm bồng cao 50cm, đường kính mặt 60cm, hai cây đèn đồng cao 70cm, 1 đỉnh đồng cao 72 cm và đôi hạc đồng cao 0,55cm.
10. Sắc phong đời Cảnh Hưng 44 (1783).
Chùa Tiểu Trà được khai sáng gắn liền với lịch sử phát triển của làng xã địa phương từ rất sớm. Người có công khai sáng được ghi nhớ trong văn bia lưu giữ tại chùa như sau: Nhất hưng công xã quan Bùi Kiến Gián và vợ là Lưu Thị Khuê. Nguồn gốc của chùa phát triển cùng với trang Tiểu Trà do Đô đài Thiên quan Phạm Hải đứng đầu. Đến năm Canh Thân (đời vua Chính Hoà - 1680), chùa được vị xã quan Bùi Kiến Gián đứng lên cùng dân làng trang trí toà tiền đường.
Năm Thành Thái thứ 14 (1902) chùa được dân làng quyên góp, tu tạo to đẹp hơn, tượng Phật được bổ sung cùng các đồ thờ tự quý như hoành phi, câu đối, cuốn thư, cửa võng sơn son, thếp vàng rực rỡ. Năm 1946, thực dân Pháp đánh chiếm Hải Phòng; chùa Tiểu Trà là nơi đóng quân của đơn vị cảnh vệ phòng thủ chiến đấu ở mặt trận phía Đông thành phố (Cầu Rào – Đồ Sơn). Năm 1947, chùa là nơi che giấu, bảo vệ cán bộ hoạt động trong lòng địch. Chùa được coi là trạm giao thông đưa đón cán bộ biệt động của bộ đội Hải Phòng – Kiến An luồn sâu vùng địch tạm chiếm. Cũng từ năm 1948, ni sư Bùi Thị Thân và Thích Đàm Thư về trụ trì đã đào hầm bí mật nuôi dưỡng cán bộ về địa phương hoạt động. Cơ sở bí mật được duy trì đến năm 1954. Một tổn thất lớn lao của chùa Tiểu Trà: Năm 1947, bọn tề nguỵ đã sử dụng chùa làm điểm tập trung thanh niên nhằm kìm kẹp, kiểm soát mọi hoạt động của Nhân dân địa phương trong việc giúp đỡ kháng chiến. Chính trong thời gian bị chiếm đóng này, hầu như kinh sách, phả ký của chùa đã bị phá huỷ. Đến năm 1991, được sự giúp đỡ của Thành hội Phật giáo Hải Phòng tranh thủ nguồn tài trợ của Hội Phật giáo Châu Á; chùa được trùng tu lại với quy mô lớn cả nội, ngoại thất, dựng tượng Quan Thế Âm Bồ tát, xây cất 2 mộ tháp lớn. Hiện nay, chùa Tiểu Trà đã trở thành một ngôi chùa có cảnh quan khang trang, thấm đượm bản sắc văn hoá truyền thống.
Hoạt động văn hoá, lễ hội: Tại đình Tiểu Trà trước đây, dân làng thường tổ chức các ngày sự lệ lớn như 10/2, 12/4 và 10/8. Hội làng được tổ chức từ ngày 6/2-10/2; có lễ rước từ đình Tiểu Trà đến đình Trà Khê rồi đình Phấn Dũng; sau đó trở về Tiểu Trà làm lễ cáo yết. Những dịp phong đăng hoà cốc, mùa màng tốt tươi, người dân Tiểu Trà còn tổ chức các cuộc rước tiễn thuyền. Nhiều cặp trai tráng khiêng thuyền làm bằng khung tre. Đây là cuộc rước rất long trọng, hoành tráng diễn tả lại những cuộc hành quân chiến đấu trên thuỷ của vị Thành hoàng Nam Hải Đại vương.
Với những giá trị của cụm di tích đình – chùa Tiểu Trà; Uỷ ban Nhân dân thành phố Hải Phòng công nhận là Di tích Lịch sử cấp thành phố (Quyết định số 177/QĐ-UBND ngày 28/01/2009).