Đỗ Chính tên khai sinh là Đỗ Đình Ân, sinh năm 1926, quê xã Văn Phúc, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo nên sớm phải tự lập, tuổi thiếu niên đã về Hà Nội lao động kiếm sống và học thêm. Trong cao trào kháng Nhật cứu quốc, anh thanh niên nghèo, có chí được giác ngộ, kết nạp vào Đoàn Thanh niên cứu quốc khu 3, thành Hà Nội , được bầu vào Ban Chấp hành Đoàn khu này rồi tổ chức điều hoạt động thoát ly. Do bị Việt Nam Quốc dân đảng phản động gây rối, phá phách nhiều nơi thuộc tỉnh Phú Thọ, tỉnh bộ Việt Minh Phú Thọ xin cán bộ tăng cường, Đỗ Chính đã được bổ sung cho Phú Thọ từ tháng 1-1946, tham gia huyện bộ Việt Minh các huyện Phù Ninh, Thanh Ba. Tháng 12-1946, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính, kiêm Bí thư huyện ủy huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Tháng 8-1947, ông chuyển về công tác tại tỉnh, tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, làm Chánh văn phòng rồi bổ sung vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban tổ chức, Ban kiểm tra Tỉnh ủy Phú Thọ. Từ tháng 9-1949, tham gia Ủy ban Đảng vụ khu 10 rồi Liên khu Việt Bắc. Giữa năm 1950, tổ chức lại điều ông về tỉnh biên giới Hải Ninh giữ chức Phó Bí thư rồi Bí thư tỉnh ủy kiêm Chính trị viên tỉnh đội. Đến tháng 10-1955, tham gia đội cải cách ruộng đất ở tỉnh Ninh Bình.
Như vậy, từ sau khởi nghĩa đến suốt cuộc kháng chiến trường kỳ, Đỗ Chính luôn có mặt ở những địa bàn nóng bỏng do sự chống phá của bọn Việt Nam quốc dân Đảng phản động, bọn thổ phỉ, tàn quân Tưởng Giới Thạch trốn chạy sang biên giới Trung Việt. Năng động, hăng say, ông đã cùng đồng chí, đồng đội gắn bó với dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng giao phó. Là người ham học, ông luôn giành thời gian học chính trị, học văn hóa, học tiếng Quảng Đông, tiếng dân tộc ít người nơi mình hoạt động.
Hoàn thành nhiệm vụ ở đoàn Cải cách ruộng đất Ninh Bình, ông trở lại quân đội, làm Chính trị viên Tiểu đoàn 2, đoàn 40 Bộ tư lệnh, Phó Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 332 Quân khu Đông Bắc rồi Chính ủy Trung đoàn 248 Quân khu tả ngạn sông Hồng. Từ tháng 3/1959-5/1961, ông được điều về giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy trực tiếp làm Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hải Ninh.
Đến tháng 6-1961, ông chuyển về công tác tại Hải Phòng, tham gia ban Thường vụ Thành ủy, làm phó Chủ tịch ủy ban Hành chính kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch thành phố.
Đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, Đỗ Chính được lệnh trở lại quân đội làm Chính ủy Bộ Tư lệnh 350. Tuy ở trong quân đội, ông vẫn tham gia Ban Thường vụ Thành ủy và Ủy viên Ủy ban Hành chính thành phố Hải Phòng để dễ kết hợp, phối hợp công tác chiến đấu và sản xuất phục vụ chiến đấu. Đặc biệt, khi công việc ở Cảng Hải Phòng không đáp ứng kịp thời việc rút hàng hóa, Đảng lại điều ông kiêm nhiệm chức Bí thư Đảng ủy Cảng để tháo gỡ khó khăn, giải phóng hàng hóa kịp thời phục vụ chiến đấu, sản xuất, chi viện chiến trường.
Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, ông được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch UBND thành phố. Trong thời gian đó, có lúc Thành ủy phân công ông trực tiếp làm Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp-một mô hình thí điểm quản lý ngành Nông nghiệp do Hải Phòng đề xuất, được Trung ương đồng ý. Ủy ban gồm các sở, ban cũ như Sở Nông nghiệp, Ty Nông lâm, Ty Thủy lợi, Ty Nông cơ, Ban Quản lý nông nghiệp, phòng Nông trường. Ông bỏ nhiều công sức, tâm huyết vừa chỉ đạo sản xuất, vừa xây dựng mô hình quản lý thí điểm. Tại Đại hội Đảng lần thứ 4 (12-1976) ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Thủy sản kiêm Bí thư Ban Cán sự Đảng. Đến năm 1981, giữ chức Trưởng ban Kế hoạch Tài chính Trung ương Đảng; tiếp tục được bầu làm Ủy viên chính thức BCHTW Đảng khóa V (3/1982), khóa VI (1986), khóa VII (12/1991); Đại biểu Quốc hội khóa VI (1981 - 1986). Thời gian này, ông được giao nhiều trọng trách: Phó Trưởng ban rồi Trưởng ban lãnh đạo đoàn chuyên gia Việt Nam tại Campuchia (từ đầu năm 1984), Trưởng Ban Kinh tế Việt Nam, Phó trưởng Ban thứ nhất, Ban Kinh tế Trung ương kiêm Bí thư Đảng ủy khối cơ quan Kinh tế Trung ương. Tại đại hội lần thứ VII giữa nhiệm kỳ, do sức khỏe kém, ông tự nguyện xin rút khỏi ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Do công lao, cống hiến lớn, ông đã được tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương chiến thắng hạng Hai, hạng Ba và Huân chương Lao động hạng Nhất của Nhà nước Cộng hòa nhân dân Campuchia. Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.
Ông qua đời tại Hà Nội ngày 18/2/1994, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.
|