ĐÌNH ĐỒNG DỤ
(Di tích Lịch sử cấp quốc gia)
Đình Đồng Dụ là công trình văn hóa phản ánh tín ngưỡng thờ Thành hoàng của Nhân dân làng Đồng Dụ, xã Đặng Cương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Ngôi đình nằm cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 14 km.
Đình Đồng Dụ là một trong những di tích thờ các nhân vật lịch sử của Hải Phòng tham gia cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh đầu thế kỷ XV. Căn cứ vào bản ngọc lục phả của các vị đại vương Đại Phạm Cây Đa, Cây Vối, Cống Mang, Láng Điển, ông Hống, Cư sỹ do Đông các đại học sỹ Nguyễn Bính biên; dưới triều Trần Thuận Tông (1388-1398) niên hiệu Quang Khải có người họ Nguyễn tên là Đại Phạm, quê huyện Hoa Phong, xứ Hải Đông; kết hôn với bà Đỗ Thị Uyển, người xã Đồng Dụ sinh được sáu người con trai; khi trưởng thành đều là những thanh niên xuất chúng, khí khái hơn người. Ông Đại Phạm dự khoa thi năm Quang Thái thứ 9 (1397), đỗ đầu làm đến chức An phủ xứ Hóa Châu; được vua yêu trọng, các quan nhún nhường, Nhân dân tôn kính. Sau bẩy cha con đều tham gia cuộc kháng chiến chống quân Minh và đều lập được công lớn. Sau khi cuộc khởi nghĩa của vua Giản Định (Trần Quý Khoáng) thất bại, bẩy cha con ông Đại Phạm lần lượt hy sinh anh dũng nơi tiền tiêu. Dân bản xã thương cảm lập miếu thờ các vị ngay tại chỗ đồn trại đóng quân ngày xưa và cứ theo tên gọi mà để thần hiệu thờ: vị thứ nhất là Đại Phạm Đại vương thờ ngôi chính giữa, dưới là các vị thần Cây Đa, Cây Vối, Cống Mang, Láng Điển, ông Hống, Cư sỹ.
Trước đây Đồng Dụ có tới hai ngôi đình là đình Đông và đình Đoài, cùng 6 miếu thờ cha con ông Đại Phạm mà theo ngọc phả là được khởi dựng ngay trên vị trí đồn trại mà các vị thiết lập trong cuộc chiến đấu chống quân Minh thế kỷ XV. Do thời gian và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, phần lớn các ngôi miếu đã bị đổ nát; chỉ còn là những điểm thờ cúng ngoài trời. Điều đặc biệt, ở vị trí giữa làng còn bảo lưu được từ đường họ Đỗ. Con cháu dòng họ vẫn tự hào có vị tổ là Đỗ Thị Uyển, vợ Đức Đại Phạm, thân sinh ra những người con trai anh dũng. Từ đường họ Đỗ góp phần chứng minh cho cuộc đời sự nghiệp anh dũng chống giặc ngoại xâm của cha con ông Đại Phạm và dân trang Đồng Dụ nói chung là chân xác.
Về kiến trúc, đình làng Đồng Dụ hiện chỉ còn lại ba gian tiền đường, hai gian hậu cung. Quy mô ban đầu của đình Đoài kiểu tiền nhất hậu đinh với tòa tiền đường năm gian đã bị dỡ bỏ năm 1962, nay chỉ còn nhận thấy những tảng đá xanh bó vỉa, nền móng kiến trúc còn lại chủ yếu tập trung ở ba gian tiền đường.
Đình được xây dựng trên một khu đất cao ráo mặt chính quay hướng Tây với không gian rộng mở, thoáng đãng. Có giếng đất, ruộng trũng liền bờ, cây gạo cổ thụ có độ tuổi trên dưới 300 năm. Cảnh quan thiên nhiên này trước đây vốn phù hợp với quy mô bề thế của ngôi đình cũ. Nay nhìn từ chính diện, duy nhất nổi lên một kiến trúc có quy mô vừa phải, bờ nóc mái không trang trí đắp vẽ gì; hai hồi tường được xây nổi, hai bên có đường chỉ chạy song song suốt bờ nóc đến hồi tường; mái lợp ngói kiểu vẩy rồng, bên dưới còn có lớp ngói màn.
Lui vào phía trong hè hiên, gian giữa treo tấm biển gỗ chữ nhật đề chữ Hán nêu cao khí phách của vị thành hoàng được tôn thờ: “Sinh vi tướng, hóa vi thần” và một số câu đối khác viết trên bốn trụ cột mặt trước.
Trang trí trên kiến trúc và những hiện vật trong đình đều đồng đại một phong cách nghệ thuật thời Nguyễn cuối thế kỷ XIX; một số hiện vật gỗ có giá trị mĩ thuật cao ở giai đoạn này như: hòm đựng sắc phong chạm thủy rồng, phượng, long, mã ngai án đặt trên cỗ kiệu đều là những tác phẩm chạm gỗ tinh xảo. Di tích đình Đồng Dụ còn lưu giữ được 18 sắc phong của các triều vua nhà Nguyễn như: Thành Thái năm đầu, Duy Tân, Khải Định phong cho Đại Phạm Thành hoàng Linh ứng phụ tô thượng đẳng thần cùng các vị con trai ông.
Hằng năm vào ngày 10 tháng Hai âm lịch, đình Đồng Dụ mở hội lớn. Sau lễ nhập tịch rước tượng vị Đại Phạm và bài vị sắc phong của sáu người con trai từ miếu thờ về đình đóng đám. Các giáp trong làng tổ chức thổi xôi, lấy nước từ giếng Cống Đông cùng nải quả ra đình làm lễ tưởng nhớ công đức các vị Thành hoàng. Trong những ngày vào đám nhộn nhịp, khu vực đền thờ, chùa và nhà thờ nội tộc họ Đỗ cũng được hòa chung không khí trang nghiêm, tôn kính của dân làng. Ngoài ngày hội chính 1/2; đình Đồng Dụ còn có những ngày lễ hằng năm như ngày 6/12 - sáu vị đồng hóa; ngày 15/7 - ngày hóa của vị Đại vương Cư sĩ; ngày khánh hạ 18 tháng Giêng.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa trên, di tích đình Đồng Dụ đã được bộ Văn hóa -Thông tin và Thể thao ban hành Quyết định số 2307-QĐ ngày 30 tháng 12 năm 1991 công nhận là di tích Lịch sử cấp quốc gia.