Hệ thống Cơ sở dữ liệu điện tử - Lịch sử Đảng bộ Thành Phố Hải Phòng 

ĐÌNH QUỲNH HOÀNG

A- A+

ĐÌNH QUỲNH HOÀNG

(Di tích Lịch sử cấp quốc gia)

    Di tích đình Quỳnh Hoàng thuộc thôn Quỳnh Hoàng, xã Nam Sơn, huyện An Hải (nay là huyện An Dương), thành phố Hải Phòng. Ngôi đình nằm ở phía Tây Bắc, cách trung tâm thành phố khoảng hơn 12 km.

    Theo thần tích còn lưu giữ tại đình, tên Quỳnh Hoàng trang xá có từ thời Trần (1226-1400), thuộc huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn. Truyền ngôn của các bậc cao niên trong làng: Quỳnh Hoàng có nghĩa là địa hình nơi đây có hình dáng tựa bông hoa quỳnh mãn khai và là nơi sản sinh, nuôi dưỡng cho đất nước nhiều bậc tài năng, tạo nên nghiệp lớn; đồng thời cũng có nghĩa là ca ngợi sự thanh khiết, trung trinh, tao nhã của con người sống nơi mảnh đất này.

    Đình Quỳnh Hoàng hiện thờ bốn vị phúc thần: Nguyễn Uy, Nguyễn Cống Lang, Trần Quốc Tuấn và Phạm Tử Nghi. Trong đó có ba vị có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII.

    1. Nguyễn Uy Đại Vương: Thân phụ là Nguyễn Nghi, thân mẫu là Nguyễn Thị Lai đều là người trang Quỳnh Hoàng. Theo thần tích, Nguyễn Uy sinh ngày 20 tháng Hai, năm Giáp Thìn, lớn lên trở thành người tài giỏi, sức khỏe hơn người, ông đã mở trường dạy học, truyền bá võ công và được rất đông trai tráng trong vùng tìm đến. Khi quân Nguyên Mông xâm lược; Nguyễn Uy xin đầu quân và đã có công lớn giúp nhà Trần đánh tan quân Nguyên Mông (năm 1288), được vua Trần ban phong là Đại Hoành trướng phủ đại tướng quân. Nguyễn Uy mất ngày 11-3 năm Đinh Dậu tại trang Quỳnh Hoàng. Vua Trần Anh Tông sức cho Nhân dân địa phương xây dựng miếu thờ và các vương triều kế tiếp ban tặng sắc phong làm Đương cảnh Thành hoàng. Hiện còn lưu giữ một số sắc phong thời nhà Nguyễn (1902-1945) từ đời vua Tự Đức đến đời vua Khải Định.

    2. Cống Lãng Đại Vương:

    Nguyễn Cống Lãng quê ở Bách Lẫm trang, đạo Hưng Hóa. Thân phụ là Nguyễn Lương, thân mẫu là Đoàn Thị Mỹ. Nghe tin ở trang Quỳnh Hoàng, đạo Hải Đông có người kiệt xuất đang chiêu mộ anh tài giúp vua cứu nước, Nguyễn Cống Lãng tìm đến, cùng Nguyễn Uy kết nghĩa anh em; chiêu tập dân binh chống giặc Nguyên xâm lược và được thu nạp vào đội quân dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo. Ông được phong chức phó tướng quân; lập công xuất sắc trong trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1288. Giặc tan, Nguyễn Cống Lãng cáo về quê nhưng khi nghe tin Nguyễn Uy qua đời, ông đã trở về Quỳnh Hoàng và ở lại đây để chăm sóc sinh phần  của người bạn chiến đấu thân thiết, người anh kết nghĩa keo sơn; tiếp tục mở trường dạy học. Nguyễn Cống Lãng mất ngày 11/12 được dân lập miếu thờ; được sắc phong của triều Nguyễn (1902-1945) truy phong là Đương cảnh Thành hoàng làng Quỳnh Hoàng.

    3. Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn

    Việc thờ Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là một trong những hình thức thờ phụng khá phổ biến ở nước ta, gọi là nghi thức thờ Trần triều hay tục thờ Đức Thánh Trần. Song ở đình Quỳnh Hoàng, Nhân dân địa phương còn giải thích: Việc thờ phụng này nhằm tưởng nhớ đến hai lần Trần Quốc Tuấn về thăm Quỳnh Hoàng và xưa kia, dân làng tự nhận là dân nghĩa tử của Trần Hưng Đạo.

    Trần Quốc Tuấn là con An Sinh Vương Trần Liễu, gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột, quê ở Tức Mặc, lộ Thiên Trường; là người văn võ song toàn. Trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), ông là một vị tướng trẻ, hăng hái tham gia đánh giặc ở mặt trận Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phú). Bước vào cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285), ông được vua Trần phong làm tổng chỉ huy quân đội, chức Quốc công Tiết chế. Trong ba lần kháng chiến chống giặc Nguyên xâm lược, Trần Quốc Tuấn đã cùng quân dân Đại Việt viết nên những trang sử vàng chói lọi của dân tộc; trở thành người anh hùng tiêu biểu trong thời đại nhà Trần (1226-1400). Mặt khác, ông là người có vị trí to lớn trong đời sống tâm linh, tín ngưỡng cổ truyền của Nhân dân.

    4. Phạm Tử Nghi:

    Phạm Tử Nghi người làng Đôn Niệm, huyện An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương – nay là phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Nhờ tài năng xuất chúng, Phạm Tử Nghi được nhà Mạc thu dụng, cất nhắc làm Thái uý, tước Tứ Dương hầu. Dù là tướng phục vụ nhà Mạc, vương triều đối nghịch với nhà Lê thắng trận sau này và bị coi là nguỵ triều, Phạm Tử Nghi vẫn được các triều đại Lê, Nguyễn sắc phong.

    Trong di tích đình Quỳnh Hoàng, trên ban thờ ở tòa hậu cung chỉ có ba bài vị đặt trên ỷ ngai tương ứng với ba vị Thành hoàng. Ở ban thờ dưới lại đặt bốn bài vị nhỏ (các vị cao niên cho biết các bài vị này được rước về từ đình Bùi – đình thuộc giáp Tây của làng). Về lịch sử đình Bùi: Nhân dân địa phương kể rằng: thời thực dân phong kiến, nội bộ làng mất đoàn kết, giáp Tây cho dựng đình riêng gọi là đình Bùi (đình của họ Bùi), vẫn thờ các vị Thành hoàng của đình gốc, sau đưa thêm Phạm Tử Nghi vào phối thờ. Phải chăng lúc giáp Tây xây đình cũng là lúc miếu thờ Phạm Tử Nghi bị hư hỏng nên Nhân dân đưa ông vào thờ tại đình? Khi đình Bùi bị dỡ bỏ, các bài vị được rước về di tích, dẫn đến sự ngộ nhận Phạm Tử Nghi là thành hoàng làng như hiện nay? Mặt khác, các sắc phong còn lưu giữ không có sắc nào của Phạm Tử Nghi, điều đó góp phần củng cố giả thiết này.

    Như vậy, đình Quỳnh Hoàng là công trình tưởng niệm của Nhân dân địa phương với những người có công với đất nước, quê hương; trong đó nổi lên là tấm gương của Nguyễn Uy, người con của mảnh đất Quỳnh Hoàng đã hy sinh trọn đời cho sự tồn vong của non sông; cho sự phồn thịnh giầu đẹp của quê hương. Ông trở thành niềm tự hào của Nhân dân địa phương.

    Theo thần tích và truyền ngôn, vào thời Trần (1226-1400) khi các vị Nguyễn Uy Đại vương, Cống Lãng Đại vương và Trần Quốc Tuấn qua đời Nhân dân trang Quỳnh Hoàng góp công, góp của xây dựng lăng mộ, đền miếu tôn thờ các vị. Ngay từ thời đó, vua Trần đã ban sắc truy phong, ghi nhận công lao của các vị để Nhân dân phụng thờ. Đến khi kiến trúc đình làng ra đời (khoảng cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV), ngôi đình trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của dân làng, là nơi tôn thờ thành hoàng - những người có công với đất nước, quê hương.

    Năm 1959, do hoàn cảnh kinh tế, văn hóa và chính trị - xã hội lúc đó, đình Quỳnh Hoàng bị dỡ bỏ. Hiện chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết chính xác về quy mô cũng như thời gian xây dựng đình. Ngôi đình cũ hầu như không còn để lại dấu vết; trong trí nhớ những người cao tuổi chỉ còn lưu lại hình dáng ngôi đình được trùng tu xây dựng. Đến năm 1990, đình được tôn tạo, trùng tu như hiện nay trên vị trí gần trung tâm làng, bố cục hình chữ nhị gồm năm gian tiền đường và ba gian hậu cung, quay hướng chính Nam, mái lợp ngói mũi hài nhỏ; thâm u, thấp thoáng dưới tán lá xanh tạo nên nét cổ kính của công trình kiến trúc. Tam quan xây bằng gạch, cửa giữa bổ hai trụ hình chữ nhật; chân và thân trụ tạo dáng thắt cổ bông; hai cửa bên phía trên đặt hình ngôi lầu bốn mái.

    Tòa tiền đường xây cao hơn sân đình khoảng 60cm; là một tòa nhà năm gian nhỏ. Hậu cung ba gian song song với tòa tiền đường. Nhìn chung kiến trúc của đình được làm khá chắc chắn bằng vật liệu hiện đại và hầu như chỉ chú trọng về giá trị sử dụng mà chưa quan tâm thỏa đáng đến giá trị kiến trúc nghệ thuật của công trình.

    Các di vật đáng quan tâm gồm: nhang án gỗ đặt giữa tòa tiền đường; bát bửu; bài vị và ỷ ngai; bát hương gốm; sáu sắc phong. Ngoài những di vật trên, ở đình còn hai pho tượng được mang từ chùa về đặt tại hữu gian toà hậu cung, gồm tượng Thích ca và tượng Đức Ông. Đây là những công trình có giá trị nghệ thuật cao.

    Hội đình diễn ra từ ngày mùng 10 đến 16/2 hằng năm với các trò chơi mang tính thượng võ như đấu vật và các hình thức múa hát, chèo, tuồng, ca trù…  

    Đình Quỳnh Hoàng là một di tích ghi dấu sự đóng góp to lớn của Nhân dân địa phương cho chiến công chung của dân tộc ở thế kỷ XIII với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông xâm lược trên sông Bạch Đằng. Đó là nguồn sử liệu có giá trị phục vụ công tác nghiên cứu lịch sử và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

    Với những giá trị trên, di tích đình Quỳnh Hoàng đã được bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao ban hành Quyết định số 983-QĐ ngày 04 tháng 8 năm 1992 công nhận là di tích Lịch sử cấp quốc gia.

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC
ĐÌNH ĐỒNG DỤ
Đình Đồng Dụ là công trình văn hóa phản ánh tín ngưỡng thờ Thành hoàng của Nhân dân làng Đồng Dụ, xã Đặng Cương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng....
DI TÍCH ĐÌNH CỮ
Đình Cữ thuộc thôn An Phú, xã Lê Thiện, huyện An Hải (nay là huyện An Dương), thành phố Hải Phòng. Trước năm 1945 là xã An Phú, tổng Vụ Nông, huyện...
DI TÍCH ĐÌNH TRÀNG DUỆ
Đình làng Tràng Duệ thuộc xã Lê Lợi, huyện An Hải xưa (nay là huyện An Dương), thành phố Hải Phòng.
DI TÍCH MIẾU NAM
Miếu Nam là công trình kiến trúc văn hoá tâm linh, tín ngưỡng của Nhân dân làng Hà Liên, xã Bắc Sơn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Nguồn gốc...
DI TÍCH ĐÌNH – CHÙA CỐNG MỸ
Cụm di tích đình - chùa Cống Mỹ thuộc xã Nam Sơn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; một địa phương có vị trí địa lý thuận lợi trong việc phát...
< 1 2 3 > 
Gửi bình luận của bạn

Chưa có bình luận nào về bài viết này

TIN XEM NHIỀU
Thống kê truy cập
  • Đang online: 15
  • Hôm nay: 495
  • Trong tuần: 11.157
  • Trong tháng: 48.659
  • Tất cả: 616.959
HỆ THỐNG CƠ SỞ DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 
Cơ quan chủ quản: Ban Tuyên giáo và Dân vận Thành ủy Hải Phòng
Địa chỉ: Tòa A, đường Đỗ Mười, Trung tâm Chính trị - Hành chính Bắc Sông Cấm, Phường Thủy Nguyên, Thành phố Hải Phòng.
Điện thoại cơ quan: 080.31163

Thư ký Ban Biên tập: 0947.08.1586