ĐÌNH TỬ ĐÔI
(Di tích Lịch sử văn hóa cấp
thành phố)
-----
Tử Đôi là một trong những làng
xã cổ, có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời của huyện Tiên Lãng và thành
phố Hải Phòng. Quê hương có truyền thống yêu nước, đoàn kết gắn bó trong chiến
đấu chống giặc ngoại xâm và lao động sản xuất. Người Tử Đôi nói riêng và nhân
dân xã Đoàn Lập nói chung còn giữ gìn, phát huy được nhiều nét truyền thống văn
hóa của quê hương, đất nước.
Đình Tử Đôi
thuộc địa bàn thôn Tử Đôi, xã Đoàn Lập, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Cũng
giống như nhiều ngôi đình làng Việt Nam khác, Đình Tử 12Đôi là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ còn giữ được
khá nguyên vẹn, là nơi thờ ba vị Thành hoàng và là nơi sinh hoạt văn hoá của nhân dân địa phương.
Theo tài liệu
được lưu lại, Đình Tử Đôi
thờ 3 vị Thành hoàng được ghi trong 3
ngọc phả, bao gồm:
(1). Ngọc phả vị đại vương, triều Hán Chiều Đế, được soạn
ngày lành tháng 7 năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) do Hàn lâm viện, Đông các đại
học sĩ Nguyễn Bính dâng soạn chính bản; ngày lành tháng 8 năm Vĩnh Hựu
(1740)Nội cách Bộ Lại tuân như bản cũ phụng sao. Ngày 14/3, Niên hiệu Bảo Đại
thứ 13 (1938) Lý trưởng xã Tử Đôi phụng sao bản như cũ. Thành hoàng tên là Vương Chẩn, sinh tại đất Long Biên
là người có nhiều công đức trong việc mở mang dân trí, giáo hoá lễ nghĩa cho
dân, do vậy người dân đội ơn và suy tôn ông làm Châu Trưởng.
(2). Bản triều Vua Tương Dực
nhà Hậu Lê thừa sao bia đá tại bản chính quốc triều. Ngọc phả nói về vị Thành hoàng
Trần Doãn Đàn. Trong khoa thi Tân Mùi, đời Lê Tương Dực ông đỗ Đệ tam giáp
đồng tiến sỹ xuất thân. Sau khi đỗ đại khoa, được yết kiến vua, vì ông là con người
đức hạnh, liêm khiết lên ông được vua Lê
cho làm quan đến chức thượng thư bộ hình. Sau này nhà Lê Trung Hưng lên thay
xét công trạng với các triều vua Lê trước đã sắc phong mỹ tự, thần hiệu, tặng
phong làm “Đương cảnh Thành
Hoàng, tả thị vệ dàn học phái, Hầu tước, hiển ứng đại vương”. Các
Triều đại Nguyễn sau này cũng sắc phong cho ông thần hiện, mỹ tự để dân Tử Đôi
thờ phụng ông như sắc Tự Đức thứ 6 (1843), Đồng Khánh thứ 2 (1886), Duy Tân thứ
3 (1909), Khải Định thứ 9 (1925).
(3). Ngọc phả Đại vương
công thần vua Lê Đại Hành thời Tiền Lê. Ông tên là Hải ở thành Long
Biên, là người văn võ toàn tài, khi tham gia ứng thi chọn người hiền tài ở Kinh
đô, ông đỗ cao được Vua phong làm Đô chỉ huy sứ đại tướng quân. Nam hiệu Thái
Bình (980) nhà Tống sai các tướng Hầu Nhân Bảo, Khâm Tộ đem 20 vạn quân thủy bộ
sang xâm lược nước ta, Vua phòng cho ông làm Tiết chế đại tướng quân kiêm quản
quân thủy bộ. Ông dẫn đại quân đi đánh
giặc tại huyện Tiên Minh, Phủ Nam Sách, Trấn Hải Dương đóng quân tại huyện sở,
giúp việc chống quân Tống. Sau này, nhân dân trong vùng tôn ông làm Thành Hoàng
và lập miếu phụng thờ cho đến ngày nay.
Đình Tử Đôi
được xây dựng trên một khu đất cao, thoáng đãng nhìn về hướng Đông Nam. Đình có
bố cục chữ nhị gồm: 5 gian tiền đường mang phong cách kiến trúc nghệ thuật thời
Nguyễn (thế kỷ XIX), 3 gian hậu cung mang phong cách thời hậu Lê (thế kỷ XVII).
Mái đình được lợp bằng ngói vẩy rồng, toàn bộ kiến trúc mái được dựng vững chắc
bằng kèo gỗ lim theo kiểu “trên thuận,
dưới kẻ”; bờ nóc và bờ giải đắp bằng vôi vữa để trơn không trang
trí gì. Tường hồi xây theo bối bổ trụ giật cấp chắc khỏe. Liên kết của toà nhà
là hệ thống xà thượng và xà hạ. Nền toà tiền đường có cấu tạo hình lòng thuyền,
lát gạch chỉ. Hậu cung gồm một gian chính cung và 2 dĩ, vì keo cấu trúc kiểu “Chồng giường, trụ chống, giá chiêng”.
Đình Tử Đôi sau hàng trăm năm tồn tại đã không
giữ được nguyên trạng và quy mô ban đầu. Tiền đường và hệ thống
ván bưng toà hậu đường đã bị hư hỏng và được nhân dân phục dựng và cuối thế kỷ
XIX. Hiện nay, số lượng đồ thờ, nghi trượng
còn lại không nhiều lắm. Song những di vật để lại rất có giá trị về mặt nghệ
thuật, niên biểu. Cụ thể:
(1). Bài vị: Một chiếc, làm từ chất liệu gỗ cao 80 cm, rộng 23 cm, chân
đế hình hộp chữ nhật có kích thước 25 cm x 14 cm x 12 cm . Đường kính mặt nguyệt:
20 cm. Bài vị mang phong cách nghệ thuật thời hậu Lê (thế kỷ XVIII).
(2). Long
ngai: 1 chiếc, chất liệu gỗ. Tay ngai uốn cong hình cánh cung, đầu mỗi bên tạo
hình đầu rồng hướng về phía trước. Nối tay ngai với mặt đế mỗi bên có 3 trấn
song con tiện. Ván lưng ngai cong hình lòng thuyền trang trí đề tài tứ linh, và
trổ thủng chữ “Thọ”. Đế ngai hình hộp chữ nhật chia làm nhiều ô trang trí
hình hoa lá, rồng phượng... Kích thước: cao: 90 cm, rộng : 40 cm .
(3). Khám thờ:
1 chiếc, làm từ chất liệu gố, mang dáng dấp như một ngôi lầu nhỏ, vòm mái cong.
Mặt sau và hai bên long ván che kín . Mặt ngoài các vách chạm nổi đề tài “Cúc hóa Long”, “Hổ ngậm chữ thọ” , chim thú… Kích thước: cao 1 m 26, sâu: 0,97 m, rộng : 0,95 m , niên
đại thế kỷ XIX.
(4). Sập thờ lớn,
kích thước bề mặt: 0,95 m x 1, 67 m, chiều cao: 0,38 m, xung quanh trang trí đề
tài “Tứ linh” (long, ly,
quy, phượng ), hoa lá cách điệu… Niên đại: thế kỷ XIX.
(5). Hòm sắt: 2 chiếc, chất liệu gỗ sơn son thếp vàng, niên đại thế kỷ
XIX.
(6). Chân đèn:
1 đôi, cao 70 cm. Niên đại thế kỷ XX.
(7). Bia đá: 2
tấm, hình dáng kích thước giống nhau, thân vuông, mái hình chóp (giống long
đình), cao 1,07 m; 4 mặt bia hình chữ nhật kích thước 38 cm x 62 cm. Chóp bia
cao 16 cm. Đế bia cấu tạo giật 2 cấp (cấp 1 có kích thước 55 cm x 55 cm; cấp 2
có kích thước 45 cm x 45 cm). Riềm xung quanh mặt bia rộng 8 cm trang trí hoa
cúc dây, mây cụm, phượng chầu mặt nguyệt, rồng cuốn thuỷ, hổ ngậm chữ “Thọ”... Niên đại
thế kỷ XVIII.
Ngoài những
đồ thờ kế trên, đình Tử Đôi còn có một số di vật khác có niên đại cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX như: Bát biểu: 2 bộ; ống hương: 1 đôi; mâm bồng: 1 chiếc;
nhang án: 1 chiếc; bát hương sứ: 1 chiếc và nhất là bộ trúc văn có niên đại nghệ
thuật thế kỷ XVIII (thời hậu Lê )…
Hàng năm,
vào các ngày 10/11; 15/2 (âm lịch) dân làng địa phương thường tổ chức dâng
hương, tế lễ, ngoài ra còn có hội bơi trải
và
đua thuyền trên Đầm Bì. Hội bơi được
nhân dân cả vùng coi như một hoạt động thiêng liêng để cầu mưa thuận gió hòa. Chính vì vậy ở Tiên Lãng có câu ca dao được
truyền tụng lâu đời trong dân gian “Lụt lội thì
tháo cống Đôi/Khi nào hạn hán thì bơi đầm Bì”.
Ngày nay, lễ hội vẫn được tổ chức,
duy trì và trở thành một hoạt động văn hóa thể thao lớn trong vùng. Cũng từ những
cuộc thi bơi trên đã cung cấp cho huyện và thành phố những đội bơi trải, bơi
thuyền giành giải cao tại các giải cấp thành phố, khu vực và toàn quốc. Song
quan trọng hơn là lễ hội đã kế thừa, duy trì và phát huy một truyền thống tốt đẹp
của quê hương Tiên Lãng, qua đó, khơi dậy lòng tự hào, yêu quê hương, đất nước và
khích lệ cho thế hế trẻ trong và ngoài địa phương luôn có ý thức vươn lên trên
những nẻo đường của quê hương, đất nước, đóng góp cho sự phát triển chung.
Ngày 28/01/2005, Ủy ban nhân dân thành phố ra quyết định số
177/QĐ-UB công nhận Đình Tử Đôi là Di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố.