MIẾU -
CHÙA TIÊN ĐÔI NỘI
(Di tích Lịch sử
Văn hóa cấp thành phố)
Miếu – Chùa Tiên Đội Nội xã Đoàn
Lập, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng, là cụm công trình kiến trúc dân gian
nằm liền kề nhau, lưu giữ nét đẹp văn hóa cộng đồng và truyền thống yêu nước,
chống giặc ngoại xâm của người dân Đoàn Lập.
Ngôi miếu toạ lạc trên gò đất
cao, thờ cúng vị Thành hoàng Nguyễn Minh. Ông là một người có tư chất thông
minh giỏi đường cung kiếm. Khi đó, Thái Thú Giao Châu là Tô Định tham tàn bạo
ngược, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa kêu gọi hào kiệt khắp nơi vùng dậy đánh
đuổi giặc Hán. Hưởng ứng lời hịch mộ quân của Hai Bà Trưng, Nguyễn Minh đã
chiêu mộ, thiên tư cao mạo, học lực tinh thông, thiên văn địa lý đều rành, binh
thư, võ nghệ. Sĩ tử đương thời đều khâm phục, khen ngợi ông là Thánh đồng. Khi
ông 16 tuổi, cha mẹ ông đều qua đời. Ông chọn đất tốt làm lễ an táng, đèn nhang
thờ phục cha mẹ theo đúng nghi thức trong 3 năm. Ngẫm nghĩ trong lòng muốn làm
việc lớn giáo hoá sĩ dân, ông đi đến khu Tiên Đôi Nội huyện Tân Minh (xưa gọi
là Bình Hà, đến đời hậu Lê đổi tên là Tiên Minh) phủ Nam Sách, đạo Hải Dương
(xưa gọi là Hồng Châu). Tại đây, thấy dân phong thật thà, học thuật còn ít nên
ông đã lập một trường học để dạy dân biết chữ, dạy dỗ dân lễ nghĩa, ân phú.
Nhân dân gia thần đều hoan hỉ, bái tạ và nhận từ uỷ chức. Công việc xong, ông
xa giá về nhiệm sở. Hôm ấy là thượng tuần tháng 11 mùa đông, ông đang ngồi ở sảnh
đường bỗng trong không gian trời đất tối tăm mù mịt, mưa gió, sấm chớp ầm ầm, sau
đó một đám mây vàng từ trên trời giáng xuống sảnh như nghênh đón ông. Trong khoảnh
khắc, trời quang mây tạnh, không thấy ông đâu nữa. Trưng nữ vương nghe tin liền
sai sứ phụng sắc phong là Tôn thần. Phong ông là Đương cảnh Thành hoàng Tế thế
an dân, uy dũng hùng lược thông minh bác đại, Trí minh Ngưng hưu, Trung đẳng thần.
Sắc ban cho khu Tiên Đôi Nội được rước mỹ tự về cho dân lập miếu phụng kính.
Miếu Tiên Đôi Nội toạ lạc trên
khu đất cao ráo, theo thể “tựa sơn gối
thuỷ”. Mặt chính của ngôi cổ miếu quay Tây Nam, nơi hội nhiều địa danh của
địa phương đã đi vào huyền thoại văn học dân gian: Kiến trúc của miếu kiểu chữ
đinh, gồm 3 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Trang trí trên kiến trúc mang đậm
phong cách nghệ thuật Nguyễn, thế kỷ XX. Quan sát kỹ tên kết cấu gỗ vì nóc hoặc
trang trí 3 mốc niên hiệu khác nhau: Giáp Ngọ Trọng Xuân, Khải Định Tân Dậu
niên và lần tu tạo di tích gần đây nhất, năm 2004 (Giáp Thân). Bố cục mặt bằng
cấu tạo bộ khung gỗ có 3 gian tiền đường, kết cấu xà gian, cột trốn. Phần vì
nóc được làm theo lối “Chống giường đốc
thước”, các thành rường cũ được đặt so le nhau đỡ những thành hoành lim chạy
suốt 3 gian bái đường, theo lối rải hoàn “thượng
tam - hạ tử”. Phân cách giữa 3 gian tiền đường với 2 gian chuôi vồ bằng bức
cốn trên kẻ gian. Nội dung các mảng đề tài trạm khắc sơn thép rực rỡ gồm hổ
phù, rồng, phượng cánh déo, tứ linh, tứ quý. Mảng trang trí chính giữa là mặt hổ
phù, hai tay sải rộng dang hai bên như đỡ những áng mây cụm, như ước vọng của
người nông dân nơi làng xã mong mưa thuận gió hoà, cỏ cây xanh tốt, mùa màng bội
thu. Những mảng trang trí này góp phần tạo lên sự phong phú của phần khung gỗ,
đồng thời làm cho không gian nội thất của ngôi miếu có chiều sâu, phù hợp với
bài trí các đồ thờ tự của di tích.
Chùa có tên chữ là Sùng Quang.
Tương truyền, chùa được khởi dựng từ cuối thời Lý với qui mô nhỏ bé, vật liệu
chủ yếu được dùng loại tranh tre, nứa, lá. Do nhiều lần gặp hoả hoạn nên đã nhiều
lần tu sửa lại. Chùa có giai đoạn phát triển rực rỡ vào thế kỷ thứ XVI, XVII.
Hiện tại, trước sân chùa còn lưu giữ một tấm bia đá kích thước: dày 0,13m, rộng
1,6m, cao 1m. Đế bia là hình rùa đội (như thường thấy tại các văn chỉ) mặt
chính của bia còn khắc rõ hai chữ: Tín thí, nghĩa là đông đảo những người có tấm
lòng “Hằng tâm - hằng sản” cũng góp
vào việc tu tạo ngôi chùa. Có thể nhận thấy, quy mô hoành tráng của ngôi chùa “ba mươi sáu gian”, được xây dựng vào thời
kỳ cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Kiến trúc hiện tại của chùa Sùng Quang được
tu dựng lại vào cuối thế kỷ XX, bố cục 5 gian mặt bằng kiểu chữ đinh gồm toà bái
đường và 2 gian chuôi vồ. Kết cấu vì nóc mái của ngôi chùa theo kiểu giá
chiêng, mái chùa lợp ngói ta hai lớp. Tòa bái đường và chuôi vồ được xây cất
theo lối: “Tường hồi bổ trụ" giật
3 cấp.
Trải qua thời gian, ngôi miếu còn
lưu giữ được một số đồ thờ tự, chất liệu gỗ, phủ sơn thếp bạc. Một cỗ ngai rồng
bài vị đề duệ hiệu của vị thần được thờ Trí Minh Tôn thần, bát hương gốm mang đậm
phong cách nghệ thuật Mạc thế kỷ XVI, bộ bát biểu (8 thanh) và một số đồ thờ tự
khác; tại chùa còn lưu giữ được một số cổ vật, di vật như Tượng Phật A Di Đà
(thường gọi là Tây phương giáo chủ), Ngọc Hoàng Nam Tào Bắc Đẩu, hai pho tượng
các vị Sư Tổ, tượng Đức Ông, tượng Đức Phật Bà Quan Âm, 01 tấm bia đá đặt trước
cửa chùa, 01 chiếc đĩa đã mang hình chữ Vạn.
Các ngày sự lệ tại miếu được ghi
nhớ tại bản thần tích như sau: Vị Thành hoàng sinh 10/1 âm lịch và hoá 11/11 âm
lịch. Công việc tế lễ, hàng năm diễn ra tại ngôi miếu chủ yếu trong hai ngày
này. Trước đây làng còn có lệ tế lễ Xuân vào tháng 2, tế Thu vào tháng 8, tế Hạ
điền tháng 5, thượng điền vào tháng 7. Đồ tế lễ giao cho Lý trưởng cắt cử, ruộng
cấy để lo việc lễ phẩm. Sau cúng lễ, đem phân phát từ các cụ già trong làng đến
3 vị chức dịch. Đặc biệt, khi tế lễ phải kiêng tên huý vị Thành hoàng. Ngày
nay, việc tổ chức lễ hội, ở cơ sở đã có sự quan tâm trực tiếp của các cấp chính
quyền ở xã, huyện và ngành Văn hoá Thông tin. Kế thừa và phát huy những giá trị
đích thực của lễ hội, nhằm tăng cường đoàn kết xây dựng cộng đồng dân cư, văn
hoá mới.
Lễ tiết tại chùa: Ngoài các lễ chung của làng
cổ Tiên Đôi Nội liên quan đến ngày sinh, ngày mất của vị Thành hoàng. Ngày giỗ
Sư Tổ của chùa được dân làng tổ chức rất trọng thể vào ngày 19/1 âm lịch hàng
năm.
Ngày 9 tháng 02 năm
2007, Uỷ ban Nhân dân thành phố ra Quyết định số 238-QĐ/UBND công nhận Miếu -
Chùa Tiên Đôi Nội là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp thành phố.