ĐÌNH AN BIÊN
(Di tích
lịch sử Quốc gia năm 2009)
Đình An Biên tọa lạc tại số 50/170 phố Hai Bà Trưng, phường
An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Đây là một công trình kiến trúc cổ
tiêu biểu, mang đậm dấu ấn lịch sử và văn hóa của vùng đất Cảng. Đình không chỉ
là nơi thờ phụng mà còn là biểu tượng văn hóa, phản ánh tinh thần và bản sắc
của người dân Hải Phòng.
Đình An Biên thờ Nữ tướng Lê Chân – một trong những nữ tướng
kiệt xuất trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40 sau Công nguyên. Bà là
người có công khai khẩn vùng đất An Biên xưa, tiền thân của thành phố Hải Phòng
ngày nay. Trong tâm thức của người dân An Biên nói riêng và toàn thể nhân dân
Hải Phòng nói chung, Nữ tướng Lê Chân luôn được coi là vị thành hoàng, sùng
kính và thiêng liêng của đất Cảng.
Đình An Biên là công trình kiến trúc cổ có quy mô bề thế,
được trùng tu nhiều lần, gần nhất là năm 2022. Đình An Biên toạ lạc trên khuôn
viên đất chữ nhật vuông vức, rộng chừng 3060m². Mặt bằng kiến trúc bố cục theo
lối chữ công (1) gồm 5 gian đại đình (tiến đường), ba gian nhà cầu (ống muống)
và 3 gian hậu cung (cung cấm). Sân rộng được lát gạch Bát Tràng, vừa là sân
khấu, vừa là chỗ để mọi người dự hội hay ngồi. Hiện nay, đình vẫn bảo tồn
nguyên vẹn kiến trúc thuở ban đầu gồm: 5 gian đại bái, 3 gian ống muống, 3
gian hậu cung. Đình được trang trí và chạm khắc tinh xảo với các đề tài tứ
linh, tứ quý mang phong cách kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu thời Nguyễn của thế
kỷ XIX. Một điểm nhấn kiến trúc độc đáo là mái ngói chiếm 2/3 chiều cao của
đình, xòe rộng và lan xuống thấp, hai đầu nhô vút ra ngoài như hai con thuyền
lớn. Bờ nóc đắp đôi chim phượng hoàng chầu vào mặt nhật tròn, tạo nên vẻ uy
nghiêm và nghệ thuật đặc sắc. Ngoài các kiến trúc chính bố cục theo lối chữ
công truyền thống, đình An Biên còn có những kiến trúc phụ độc đáo khác. Nó
không chỉ làm tăng qui mô hay về thần bí linh thiêng mà thực sự còn làm đẹp cho
công trình kiến trúc chính. Đó là 2 toà tả mạc, hữu mạc 3 gian kèm hai bên nhà
cầu phía sau đại đình mặt quay vào trong. Hồi của tả mạc, hữu mạc chính là
tường sau của tả gian, hữu gian của đại đình. Chính giữa hồi này trổ một cửa
nhỏ thông sang nhau, đưa không gian kiến trúc tả mạc, hữu mạc gần gũi với không
gian đại đình cao rộng. Mái tả mạc, hữu mạc thấp hơn mái nhà cầu, dường như nó
chỉ tạo thành đường diễm trang trí cho mái ngói nhà cầu mà thôi. Từ tường sau
của tả mạc, hữu mạc, người ta xây một bức tường nối với tường toà cung cấm,
giúp cho việc hình thành một chỉnh thể không gian khép kín của ngôi đình. Trên
đoạn tường này mở một cổng phụ đối xứng nhau, cổng mang dáng dấp của ngôi lầu 2
tầng 4 mái, mái lợp ngói vẫy rồng, đao cong hình lá lật mềm mại, Gian giữa của
toà hậu cung nhô lên một ngôi lầu vuông 3 tầng, 8 mái kiểu thượng thu hạ thách.
Phần chống diêm xây tường gạch, mặt ngoài đắp nổi đồ án tứ linh. Tám mái đao cong
dấp rồng chầu phượng mớm, lá lật uyển chuyển như những cánh tay thôn nữ trong
động tác múa đèn. Hồi hậu cung uốn cong hình quai chảo mềm mại, giống hệt như
hồi đốc đến Nghè- nơi cùng thờ nữ tướng Lê Chân, vị thành hoàng của làng cổ An
Biên. Hai bên hồi hình quai chảo, người ta dựng cột đồng trụ vuông, đỉnh cột
tạo đấu vuông giật cấp, phía trên đặt đấu thách cổ bồng. Đứng trên đấu cổ bồng
là đôi kim nghê hùng dũng thân phủ vẩy sành. Nghê cũng giống như rồng; là một
con vật vũ trụ, hoàn toàn có tính chất tượng trưng. Nó là một trong hai con Kỳ
hoặc Lân (con đực và con cái) thường đi với nhau thành một cặp (Kỳ - Lân).
Đình An Biên gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của Nữ tướng
Lê Chân. Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, bà cùng đội quân của mình tham
gia và lập nhiều chiến công, được phong làm “Thánh Chân Công chúa”, giữ chức
“Chưởng quản binh quyền nội bộ”, trấn giữ vùng hải tần phía Đông Bắc của Tổ
quốc.
Không chỉ là nơi thờ tự, đình An
Biên chính là biểu tượng cho tinh thần bất khuất của người phụ nữ Việt Nam
trong công cuộc chống ngoại xâm. Việc thờ Nữ tướng Lê Chân không chỉ phản ánh
truyền thống uống nước nhớ nguồn, mà còn là minh chứng sống động cho ý thức nữ
quyền đã sớm hình thành trong văn hóa Việt. Hình ảnh Nữ tướng cưỡi voi, dẫn đầu
đội quân Duyên hải là biểu tượng của lòng dũng cảm, trí tuệ và lòng trung thành
với dân tộc.
Hiện tại, nơi này vẫn bảo tồn nhiều hiện vật quý giá phản
ánh lịch sử và văn hóa của địa phương. Đặc biệt, giữa sân đình nổi bật là tượng
đài Nữ tướng Lê Chân được chạm khắc tinh xảo, thần thái uy nghiêm. Phía sau
tượng đài là hồ nước hình bán nguyệt, xung quanh là các bồn hoa, chậu cảnh tạo
thành một tổng hòa không thể tách rời, góp phần tô điểm thêm cho không gian
kiến trúc nơi đây.
Hàng năm, đình An Biên tổ chức các hoạt động kỷ niệm về Nữ
tướng Lê Chân, trong đó có ba ngày lễ chính: Ngày sinh (8-2 âm lịch) Ngày
thắng trận (15-8 âm lịch). Ngày hóa (13-7 âm lịch). Trong các ngày sinh mồng 8
tháng 2 và ngày khánh hạ 15 tháng 8, trước đây dân vẫn tổ chức rước tượng từ
đến Nghè về đình thờ trong 10 ngày. Các dòng họ trong làng xã tổ chức tế lễ ở
đến, đình, tế nam quan, đánh vật để ôn lại truyền thống thượng võ của đội quân
miền Duyên Hải dưới sự chỉ huy của nữ tướng Lê Chân. Một nét đặc trưng về lễ
vật dâng lên bàn thờ nữ tướng của dân làng An Biên không thể thiếu. Ba thứ lễ
vật không thể thiếu của dân làng đó là: Cua biển, bún (gọi là sợi) và sò đặc
trưng cho hải sản miền biển. Sau từ 7 đến 10 ngày lễ hội, dân làng lại rước
tượng hồi cung tại Đến Nghè, Truyền thống lễ hội của dân làng An Biên, phải kể
đến hội thi cất gọt hãm hoa Thuỷ tiên tại Đền Nghè vào dịp đầu xuân năm mới
trước đây. Đây là một lễ hội rất độc đáo nhưng đã bị thất truyền từ lâu hiện đã
được khôi phục ngày càng thu hút nhiều nghệ nhân tham gia. Lễ hội truyền thống
Nữ tướng Lê Chân được tổ chức quy mô hoành tráng với nhiều hoạt động văn hóa,
nghệ thuật truyền thống như: múa rối, hát ca trù, chèo cổ, biểu diễn nhạc cụ
dân tộc, tái hiện các trò chơi dân gian… Đặc biệt, lễ hội còn có chương trình thực
hành di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại - Tín ngưỡng thờ Mẫu tam
phủ của người Việt.
Với những giá trị lịch sử và nghệ thuật đặc sắc, đình An
Biên đã được xếp hạng Di tích lịch sử Quốc gia năm 2009. Đây là sự ghi nhận
xứng đáng cho công tác gìn giữ và phát huy giá trị di sản văn hóa, lịch sử của
địa phương./.