ĐÌNH
DƯ HÀNG
(Di
tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia)
Đình Dư Hàng tọa lạc tại xã Dư Hàng Kênh, huyện An
Hải (nay thuộc quận Lê Chân), thành phố Hải Phòng. Đình Dư Hàng là một trong những
di tích kiến trúc nghệ thuật có quy mô của thành phố, nơi bảo lưu khá trọn vẹn
nghệ thuật trang trí và kiến trúc của đình làng cổ thế kỷ XVIII và cuối thế kỷ
XIX. Đây là một trong số ít di tích nổi tiếng tưởng niệm Ngô Quyền còn lại ở
chính vùng đất ông đã từng lập công, là điểm tham quan du lịch có giá trị lịch
sử và là niềm tự hào của thành phố Cảng.
Xưa kia, xã Dư Hàng Kênh thuộc xã Hàng Kênh (tổng
Đông Khê, huyện An Dương). Xã Hàng Kênh ban đầu gồm 5 thôn, trong đó có thôn
Đem (tức thôn Dư Hàng). Ban đầu, làng Hàng Kênh có một ngôi đình chung (đình
Kênh hiện nay, xây dựng thế kỷ XVIII). Đến cuối thế kỷ XIX, do dân số tăng, xã
Hàng Kênh tách thành hai làng là Hàng Kênh và Dư Hàng. Làng Hàng Kênh giữ lại
đình chung, còn làng Dư Hàng được chia ngôi chùa (chùa Dư Hàng).
Đình Dư Hàng là một trong nhiều công trình được Nhân
dân xây dựng để tưởng niệm và tôn thờ Ngô Quyền, vị anh hùng dân tộc, "Ông
Tổ trung hưng" đã có công đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Theo
các tài liệu và sắc phong còn lưu giữ ở một số di tích trong vùng (như Lạc
Viên, Gia Viên, Hàng Kênh), các vua triều Nguyễn như Đồng Khánh (1887) và Tự Đức
(1880) đã ban sắc chỉ cho 17 xã thuộc tổng Đông Khê và các tổng lân cận (bao gồm
Dư Hàng) xây dựng công trình tưởng niệm và thờ cúng Ngô Vương. Người dân Dư
Hàng chọn xây đình để thờ Ngô Quyền, mong muốn ông gắn bó với cuộc sống đời thường
của dân làng.
Vào đầu thế kỷ XX, dân làng Dư Hàng đã đóng góp xây
dựng ngôi đình hiện nay, dựa trên việc sao chép nguyên bản từ ngôi đình chung
cũ (đình Hàng Kênh) để làm nơi hội họp và sinh hoạt văn hóa. Đình Dư Hàng nằm ở
khu đất cao ráo phía Tây Bắc của xã Dư Hàng Kênh, là trung tâm của làng Dư Hàng
xưa. Khu vực này giáp ranh với các phường Hàng Kênh, Niệm Nghĩa và Dư Hàng thuộc
quận Ngô Quyền (thực tế hiện nay là quận Lê Chân và Ngô Quyền). Từ trung tâm
thành phố có thể đến di tích bằng nhiều phương tiện, quãng đường khoảng 2,5km.
Đình Dư Hàng được dân làng xây dựng vào cuối thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX. Khởi thủy, đình được xây dựng nhỏ bé vào năm Tự Đức thứ 9
(1856) và đến năm Thành Thái thứ 8 (1905) mới bắt đầu xây dựng quy mô lớn như
hiện nay. Tương truyền, đình được làm trong 10 năm, hoàn thành vào năm Duy Tân
thứ 8 (1914), do hai hiệp thợ Nam Hà (Hà Nam Ninh) thi công. Đình mô phỏng kiến
trúc đình Hàng Kênh. Đình Dư Hàng còn có cấu trúc mặt bằng và kiến trúc mang
hình dáng của đình làng Việt Nam thế kỷ XVIII.
- Cổng và sân: Phía trước là sân rộng, cổng
tam quan. Cổng chính giữa có hai cột trụ lớn, trên mặt cột đắp nổi đôi câu đối
chữ Hán. Hai bên sân xưa có hai dãy giải vũ nhưng nay không còn.
- Kiến
trúc chính: Bố cục theo hình chữ "công" (I) gồm tòa Đại đình (Tiền
đường) phía trước và Hậu cung phía sau, nối với nhau bằng nhà cầu (ống muống).
Toàn bộ công trình làm bằng gỗ lim.
- Đại
đình (Tiền đường): Gồm 7 gian (hay 5 gian 2 chái), mái kiểu "tàu đao
lá mái" với bốn đầu đao cong vút. Kết cấu vì kèo kiểu "chồng rường kẻ
hiên" với 8 hàng chân cột, tổng cộng 32 cột gỗ lim lớn (đường kính khoảng
2m, cao gần 5m) đứng trên các tảng đá. Gian giữa xưa không lát ván (lòng thuyền).
Xung quanh là hệ thống ván gỗ, phía trên có chấn song. Tiền đường có 6 bộ vì (4
vì giữa và 2 vì đốc). Kết cấu vì trên kiểu "chồng rường con nhị", câu
đầu lớn nối hai cột cái. Dưới bụng câu đầu của hai vì trung tâm có đầu dư hình
rồng.
- Nhà
cầu (ống muống): Nối giữa Đại đình và Hậu cung, có 3 gian, kết cấu vì kèo 4
hàng cột, kích thước nhỏ hơn Đại đình.
- Hậu
cung: Gồm 3 gian (hay 1 gian 2 chái). Công trình này được làm mới hoàn toàn
trong đợt tu sửa cuối thập niên 90, cột nguyên thủy được thay bằng bê tông cốt
thép. Kết cấu bộ vì tương tự Đại đình.
- Mái: Lợp ngói mũi hài. Trên nóc mái
đắp "lưỡng long chầu nguyệt", đầu hồi đắp hình "quái thú",
góc mái đắp đôi nghê chầu, giữa bờ giải là hình phượng múa.
Đình Dư
Hàng nổi bật với nghệ thuật chạm khắc gỗ tinh xảo, phong phú, chủ yếu tập trung
ở các thành phần kiến trúc như rường, đấu, câu đầu, ván lá gió, bẩy hiên, tập
trung vào các đặc điểm chính:
- Đề
tài rồng: Là chủ đề trang trí chủ đạo, ước tính khoảng 400 con rồng được chạm
khắc khắp đình, trong
đó có trên 300 con rồng tại tòa Đại đình.
Rồng mang nhiều phong cách, từ nghệ thuật thế kỷ XVIII (2/3 số lượng) đến cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (1/3 số lượng). Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế,
kích thước khác nhau, từ "lưỡng long chầu nguyệt", "tứ
linh" đến các hình tượng dân dã hơn như "rồng vuốt râu", rồng
cùng hoa lá, chim thú. Đầu rồng thường là trung tâm, xung quanh là rồng con quấn
quýt.
- Thủ
pháp: Sử dụng nhiều kỹ thuật chạm bong hình, giúp các mảng chạm có không
gian nhiều tầng lớp, gần với điêu khắc tượng tròn.
- Các
đề tài khác: Ngoài rồng, còn có các họa tiết hoa lá cách điệu, hươu nai,
chim công, phượng múa, hổ phù. Các tấm ván dưới chấn song ở hiên ngoài chạm khắc
nhiều mảng đề tài rồng mây, hoa lá, chim thú.
- Đặc
điểm: Nghệ thuật trang trí ở đình Dư Hàng là sự kế thừa và phát triển nghệ
thuật kiến trúc, mỹ thuật cổ dân tộc từ thời Hậu Lê (thế kỷ XVIII) đến cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, thể hiện qua bàn tay tài hoa của các nghệ nhân dân gian.
Tuy đình
có quy mô lớn nhưng số lượng di vật còn lại không nhiều, hầu hết mang phong
cách nghệ thuật cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
1. Tượng
Ngô Quyền: Pho tượng đẹp về nghệ thuật, thể hiện Ngô Quyền ngồi trên ngai
trong tư thế thiết triều, đầu đội mũ chúa, mặc long bào thêu rồng phượng, tay
phải đặt trên gối phải trong thế ấn quyết, tay trái úp trên gối trái. Tượng cao
1,57m.
2. Nhang
án gỗ: 2 chiếc, một ở hậu cung, một ở tiền đường, kích thước và niên đại cơ
bản giống nhau (cao 1,6m, rộng 0,74m, dài 1,81m). Chạm khắc tinh xảo các đề tài
hoa cúc, quả lựu, rồng, phượng, rùa, long mã....
3. Long
đình: 1 chiếc, tạo dáng hình ngôi lầu nhỏ chồng diêm hai tầng tám mái, cao
2,50m, rộng 0,82m. Chạm trổ công phu với các đề tài rồng, phượng, dơi....
4. Kiệu bát cống: 2 cỗ (một kiệu rồng và một kiệu phượng).
- Kiệu rồng: Tay đòn tạo hình rồng hoàn chỉnh, chạm khắc rồng, hổ
phù, phượng. Thân rồng phủ kín vảy và các chi tiết tinh xảo.
- Kiệu phượng: Tay đòn mảnh mai hơn, tạo dáng đầu phượng, đuôi rồng,
trang trí hoa văn hình học, hoa lá cách điệu.
5. Đại tự: 3 bức lớn ở Tiền đường. Bức ở gian giữa tạo dáng cuốn thư với
chữ "Vương Công Vị" (Thực tế trong tài liệu ghi "Vương Công
Trao"). Hai bức ở tả gian và hữu gian ghi "Tích Phúc Dụ" và
"Thọ Vô Cương".
6. Bát
bửu: 2 bộ.
7. Chấp
kích: 1 bộ.
Ngoài ra
Đình còn có khám thờ Mẫu, bát hương, đỉnh đồng, trống chiêng, bia đá... nhưng
giá trị nghệ thuật không quá nổi bật.
Lễ hội
truyền thống ở đình Dư Hàng về cơ bản giống với các làng xã khác ở vùng ven đô
Hải Phòng cùng thờ Ngô Quyền như Hàng Kênh, Hạ Lũng, Hạ Đoạn.
Ngày 04 tháng 8 năm 1992, Bộ Văn hóa, Thông tin và
Thể thao ra Quyết định số 983/QĐ công nhận Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc
gia đối với Đình Dư Hàng./.