DI TÍCH CHÙA PHÁC XUYÊN
(Di tích Lịch sử)
Chùa Phác Xuyên được đặt theo địa danh tọa lạc: làng Phác Xuyên, xã Bạch Đằng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Chùa có tên chữ là Thiên Tộ (nghĩa là ngôi chùa được phúc lộc của Trời). Chùa nằm ven làng, một bên là cánh đồng lúa. Khoảng cách từ trung tâm thành phố đến di tích khoảng 24 km.
Chùa Phác Xuyên trước vốn là chốn Thiền môn khá nổi tiếng, quy tụ nhiều tăng ni, phật tử về tu tập. Chùa có quy mô khá lớn với tòa ngang, dãy dọc bề thế, cổ kính; có Phật điện, cổng Tam quan, nhà thờ Tổ, vườn tháp. Chùa được khởi dựng từ thế kỷ 6 khi Phật giáo du nhập về đất Tiên Lãng. Đến thế kỷ XII, triều Lý, thời Lý Anh Tông (1138-1175), niên hiệu Thiệu Minh, Lê Thái hậu nhân kinh lý qua, thấy chùa của trang Cá Lộ đẹp, dân tình mộ đạo đã cho tu bổ, tôn tạo, dựng bảo tháp, đúc chuông, tạc tượng; đặt tên chùa là Thiên Tộ (ngôi Trời), tên húy của vua Lý Anh Tông. Từ đó, chùa là nơi lưu giữ kinh Phật của một vùng rộng lớn.
Đến thời nhà Trần, chùa Thiên Tộ do Tổ Non Đông, tức Tổ Muống, thế danh Vương Huệ trụ trì. Tương truyền, trong một đêm tổ Non Đông cất dựng bảy mươi hai ngôi chùa ở nhiều nơi thuộc tỉnh Đông (tỉnh Hải Dương).
Do thăng trầm của lịch sử, tác động của thiên nhiên, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, chùa Phác Xuyên đã bị giặc Pháp hủy hoại. Tượng pháp, đồ thờ tự, tế khí trong chùa bị mất mát, thất lạc. Năm 2001, dân làng Phác Xuyên phục dựng lại ngôi chùa trên nền đất cũ. Năm 2003 ngôi chùa khánh thành, vật liệu xây chùa bằng chất liệu mới, bê tông cốt sắt. Chùa có mặt bằng kiến trúc kiểu chữ Đinh truyền thống, tiền điện 5 gian, ba gian chính, hai gian dĩ; thượng điện 3 gian. Vườn Tháp của chùa có bốn tháp sư tổ, hai tháp được xây dựng vào thời Hậu Lê, thế kỷ XVII-XVIII.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kỳ của dân tộc, các nhà sư yêu nước ở huyện Tiên Lãng đã tích cực tham gia cách mạng, hoạt động trong “Hội Tăng già cứu quốc”. Nhiều nhà sư bị địch bắt, tra tấn dã man, đã hy sinh anh dũng quyết bảo vệ an toàn cho cán bộ, bộ đội và dân quân du kích… Ghi nhận cống hiến đó, Đảng và Nhà nước đã công nhận liệt sỹ cho sáu nhà sư, trong đó có hai nhà sư Thích Tâm Bồng, sinh 1922, Thích Tâm Thái sinh 1928, cùng trụ trì chùa Thiên Tộ, xã Bạch Đằng.
Dù trải qua thời gian và bị tàn phá bởi chiến tranh, đồ thờ tự, cổ vật bị thất lạc nhiều song đến nay, chùa Thiên Tộ vẫn lưu giữ được một số di vật quý:
- Tượng sư Tổ: Ba pho hiện được thờ tại nhà thờ Tổ. Tượng có kích thước bằng người thường, mặc áo pháp chùng, ngồi trong tư thế tọa thiền trên bệ, nét mặt ưu tư, khắc khổ. Tượng được tạo tác vào cuối thế kỷ XIX.
- Tượng thổ địa: ngồi trên bệ, đội mỹ tỳ lư. Mặc phẩm phục như một vị quan đương triều, chân đi hia, râu dài trắng, tay để tự nhiên trên gối; sơn son, thếp bạc, phủ hoàn kim, có niên đại tạo tác cuối thế kỷ XIX.
Tại chùa Thiên Tộ, hàng năm vào các dịp ngày 25/1, dân làng Phác Xuyên tổ chức giỗ Tổ Non Đông, người có công khởi dựng ngôi chùa từ thế kỷ 13-14. Ngày 3/3, tổ chức giỗ Mẫu: Mẫu Liễu Hạnh và Tam tòa Thánh Mẫu – các bậc Mẫu sáng tạo của vũ trụ và luôn che chở, ban phúc lành cho lương dân theo tín ngưỡng dân gian về đạo Mẫu của người Việt.
Ngoài ra, chùa còn tổ chức các ngày lễ Phật Đản (Phật sinh) vào 15/4, ngày lễ Vu Lan (rằm tháng Bảy) xá tội vong nhân.
Những ngày tuần, rằm, sóc, vọng và các dịp Tết Nguyên đán, tiết xuân, nhân dân trong và ngoài địa phương đến chùa dâng hương lễ Phật, cầu cho quốc thái, dân an, rèn tâm, kiến tính để tu nhân, tích đức, làm điều thiện, đức, tạo cho cuộc sống dân làng bình an, ấm no, hạnh phúc. Đồng thời, người dân đến chùa cũng là để tri ân, tưởng nhớ một thời kỳ oanh liệt, hào hùng của nhân dân địa phương đã ghi lại nơi thiền tự. Tại ngôi chùa đã có nhiều người ngã xuống, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, trong đó có hai nhà sư trụ trì chùa. Chùa Thiên Tộ thực sự đang là nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng và là địa chỉ đỏ có ý nghĩa giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ người dân địa phương.
Ghi nhận giá trị về lịch sử và văn hoá của chùa Thiên Tộ, Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Phòng xếp hạng Di tích Lịch sử (Quyết định số 1444-QĐ/UBND ngày 05/9/2012) đối với di tích này./.