MIẾU - CHÙA XÂM BỒ
(Di tích Lịch sử, Nghệ thuật cấp quốc gia)
-----
Miếu - Chùa Xâm Bồ là hai di sản
văn hóa thuộc xã Nam Hải, huyện An Hải (nay là Quận Hải An), thành
phố Hải phòng, nằm cách
trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 12km. Cụm di tích tọa lạc trên thế đất đẹp, linh thiêng. Trải qua
thời gian, địa danh có sự thay đổi, song Chùa - Miếu Xâm Bồ vẫn tồn tại, đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng cổ truyền, tôn giáo đạo Phật của
Nhân dân trong vùng.
Cụm di
tích là một trong những đài tưởng niệm về Đức Ngô Vương và chiến thắng Bạch Đằng
năm 938 tại vùng đất ông đã từng lập chiến công.
Miếu
Xâm Bồ:
Căn cứ
vào các tài liệu cổ như thần phả, sắc phong thời Lê, Nguyễn còn được lưu giữ,
miếu Xâm Bồ tôn thờ các nhân vật lịch sử: Quý Minh bộ tướng của Hùng duệ vương
(18) là người anh em kết nghĩa với Tản Viên sơn thánh; Thái tử Ngô Xương Ngập
con cả Ngô vương; đặc biệt, tôn thờ chính vị hiện nay tại di tích là Ngô Vương
Quyền. Ngoài ra, miếu còn phối thờ Tử Dương Hầu Phạm Tử Nghi, một nhân vật kiệt
xuất của vương triều Mạc, thế kỷ XVI, quê ở Vĩnh niệm, An Hải.
Kiến
trúc của miếu Xâm Bồ cổ xưa là một địa điểm thờ cúng nhỏ, lợp tranh tre, thờ thần
vị: "Thánh vương tiền Ngô Vương Thiên tử - Thượng đẳng tới linh đại
vương". Thần vị hiện nay đặt trên ngai rồng, cung trong mang nét trang trí
nghệ thuật Mạc cuối thế kỷ XVI. Hiện tại, di tích miếu Xâm Bồ là một công trình
khép kín mang kiến trúc cổ hình chữ nhị, gồm các hạng mục: Miếu ngoài, miếu
trong, cung cấm, sân và tường bao quanh. Mặt chính của miếu quay hướng Đông Nam.
Bằng lối kết cấu vật liệu truyền thống như gỗ, đá, tường xây bằng vôi, bộ khung
bằng loại gỗ họ tứ thiết như lim, sên, táu. Miếu Xâm Bồ gồm: 3 gian miếu ngoài,
5 gian miếu trong và 1 gian cung cấm.
Kiến
trúc mang niên đại nghệ thuật Nguyễn cuối thế kỷ XIX, thời Thành Thái
(1889-1907). Đây cũng là thời điểm Nhân dân trong làng bắt đầu ổn định nơi cư
trú, thể hiện ý thức cộng đồng qua lòng tôn kính vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền.
Hai vì
gỗ gian trung tâm chứa 4 tấm cửa quay đóng mở lối ra vào nội thất, các bức cốn
mê chạm nổi hình hoa lá, rồng mây được tạo bởi: Đấu sen kép cùng đấu trên câu đầu
nổi hai cột cái. Lôi rải hoành kiều thượng tam, hạ tứ tạo phần mái của kiến
trúc có độ độc lớn. Hai vì bên, dưới xà nóc mái là các bức vấn mê hình rồng,
mày hoa lá cách điệu. Góp phần liên kết các vì gỗ với nhau, giữa các cột quân
là các thanh then tàu đỡ lá mái, phía trên các thanh xà hạ chạy suốt chiều dài
của tòa miếu. Bao quanh các vì gỗ là hồi tường xây gạch cổ.
Tòa miếu
trong gồm 4 vì gỗ, có cột cái và cột hiên tạo thành gian chính cao, rộng rãi. Đặc
điểm lớn của kiến trúc miếu trong là sự phối hợp giữa xà thượng và xà hạ, câu đầu
cùng hai thanh kẻ góc làm nhiệm vụ tạo sự hợp lý, chắc chắn của nóc mái, tăng
diện tích sử dụng.
Từ cột
cái nối sang kẻ góc. Từ cột trốn ngồi trên kẻ, nối tới cột sát tường. Từ đây lại
có sự liên kết chịu lực giữa bảy hiền, xà hạ, cột trốn, cột hiên. Đặc biệt của
tòa miếu trong, phần cốt bằng gỗ tứ thiết, phần ngoài được sơn son thếp vàng, vẽ
các hình rồng cầu kỳ. Phần đuôi chữ đinh của tòa miếu trong được tạo bởi 4 hàng
cột và vì nóc mái cao, trên xà ngang và nổi cột cái với cột quân tạo thành lối
đi 2 bên của gian cung. Trên thanh xà ngang chứa bộ cửa con tiện và lối đi 2
bên ra vào cung cấm được tạo 3 đôi mắt của hình núm gỗ, đường kính 8cm, mang ý
nghĩa cầu phồn thực.
Kiến
trúc miều Xâm bồ có quy mô vừa phải nhưng trang trí trên kiến trúc có chọn lọc
bằng những chi tiết quen thuộc trong bộ tứ linh, tứ quy (hoa, cô lá thiêng).
Những
hiện vật được bảo lưu tại miếu:
- Hai
chiếc bia đá hình trữ chữ nhật: Đỉnh mái kiểu trúc đài, nóc trang trí hoa văn,
thú 4 chân, kiêu Hậu Lê. Có kích thước: Cao 137cm, 38x39(cm) và 43x49(cm). Bia
thứ nhất mang niên hiệu: Cảnh Thịnh ngũ niên (1798). Bia thứ hai, cũng là bia
Lê, nhưng đã được cạo đi, đề niên hiệu Hoàng triều Minh Mạng Bính Thân (1836).
- Cửa
võng chạm thùng: 2 bộ.
- Khám
đại: Cao 219, dài 257, ngang 118cm, mái hình lòng thuyền, chứa ngai thần tượng
Ngô Vương Quyền, ngự trên ngai rồng. Tương tạc theo lối suy tôn, toát lên thần
thái của một vị anh hùng có công đánh giặc cứu nước, cứu dân.
- Lọ
hoa, bát cắm hương và một số nậm rượu.
Lễ hội
truyền thống tại miếu Xâm Bồ là thờ Ngô Vương Quyền. Trước đây, khi làng chưa cất
được miếu to rộng vẫn tôn thờ thần vị nhất vị Ngô Vương. Những năm gần đây,
cùng với phong trào tu sửa, phục hồi lễ hội cổ truyền trong làng xã, Xâm Bồ với
làng Đôn Niệm vẫn duy trì quan hệ trong dịp lễ hội Ngô Quyền và Phạm Tử Nghi
trong tiết xuân thu nhị kỳ. Ngoài lễ tiết còn có các môn võ, trò chơi có tính
thượng võ như múa kiếm, đao, vật, cờ người, chọi gà làm phong phú thêm nội dung
lễ hội. Miêu Xâm Bồ là một công trình văn hóa cổ - một đài tưởng niệm chiến thắng
của nhân dân địa phương đối với vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền. Di tích còn là
nơi bảo lưu truyền thống, tập tục sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân địa
phương.
Chùa
Xâm Bồ:
Chùa
Xâm Bồ tên chữ là Thắng phúc tự. Xâm Bồ là tên của một thôn thuộc xã Nam Hải
ngày nay và là một làng (tức xã) của tổng Lương Xâm xưa. Theo danh sách làng xã
thời nhà Nguyễn (1802-1945), tổng Lương Xâm gồm 7 xã: Phường Lương Xâm, Xâm Động,
Hạ Lũng, Lùng Bắc, Lương Khê, Phao Võng và Xâm Bồ.
Về kiến
trúc, do thời gian chùa đã bị hủy hoại hoàn toàn, tuy nhiên qua văn bia, có thể
hình dung được chùa xưa là một công trình tương đối khang trang lộng lẫy. Đặc
biệt, tại một văn bia khắc trên trụ dựng trước cửa chùa cho biết niên đại thuộc
niên hiệu Chính Hỏa (1680-1705). Thạch thiên đài trụ là cổ vật sáng giá có niên
đại sớm nhất trong các di vật còn lại của chùa.
Ngày
nay, Chùa Xâm Bồ xây dựng trên khu đất phong quang, tĩnh mịch. Chùa quay hướng
Đông Nam, nằm phía sau hai ngôi đền miếu thờ đức Ngô Quyền là Từ Lương xâm và
miếu Xâm Bồ theo nghi thức thờ tự "Tiền thánh hậu phật" theo truyền
thống của người Việt nam. Ba di tích này tạo thành một cụm các công trình kiến
trúc nghệ thuật và lịch sử của địa phương, cùng nhau bảo tồn truyền thống văn
hóa dân tộc, nét đẹp của thuần phong mỹ tục quê hương. Cụm di tích bố cục trong
thế ngai rồng linh thiêng đắc địa.
Công
trình được dựng trên một khuôn viên rộng rãi, với nhiều tòa ngang dãy đọc, được
quy hoạch khá gọn gàng. Phật điện bố trí hình chữ đinh, gồm 3 gian tiền đường
và 2 gian hậu cung. Bên phải phật điện là một sân rộng, lát gạch phẳng, tạo nhiều
bồn hoa trồng cây cảnh xanh mát. Bao quanh sân là hai tòa kiến trúc quy vuông
hình thước thợ: Nhà Mẫu bố cục hình chữ nhị gồm 5 gian điện ngoài và ba gian điện
trong, cùng quay hướng Đông như điện phật. Nhà thờ Tổ mang dáng dấp chữ đinh gồm
4 gian tiền đường và 1 gian hậu cung. Bên trái điện phật là khu vườn tháp sư gồm
3 ngôi tháp mộ sư tổ. Các công trình kiến trúc của chùa Xâm Bồ đều được làm
theo lối bổ trụ giật tam cấp. Tòa phật điện còn bảo lưu được dáng vẻ cổ xưa nhờ
mái ngói mũi hài rêu phong.
Mặt
trước tòa phật điện lắp hệ thống cửa gỗ kiểu "cửa tùng khung khách”. Qua cửa
là vào đến Phật điện, tiền đường 3 gian thoáng đãng. Tòa Phật điện, một vì kèo
có 4 cột gọi là "tư hàng chân" gồm 2 cột cái và hai cột quân. Bốn mặt
tầng hai đều xây tường gạch che, hai mặt trước sau trổ cửa hình vòm thường gặp
trong các kiến trúc tháp chùa nổi tiếng như Phổ Minh (Nam Hà), Bình Sơn (Vĩnh
Phú), Lâm Động, Do Nha (Hải Phòng)... Nhờ các cửa này, quả chuông đồng lớn có
điều kiện phô diễn vẻ đẹp và ngân vang âm thanh. Tầng trên cùng, bộ mái hình
thuyền rồng úp với các đạo cong đắp nổi trang trí các đề tài liên quan đến Phật...
Đặc biệt, cổng chính của tam quan còn là nơi có các bậc hay chữ đề vịnh câu đối
bằng chữ Hán, nội dung chính là ca ngợi đạo pháp và cảnh đẹp của chốn linh tự. Hai
bên cổng chính là các cổng phụ nhỏ hợp thành tam quan. Cổng bên tạo dáng hình
ngôi lầu 2 tầng 4 mái quen thuộc và đắp nổi trang trí đề tài tứ linh gồm long
cuốn thủy, rùa đội lá sen, long mã hà đồ, phương hàm thư.
Tam
quan chùa Xâm Bồ là một kiến trúc đẹp, quy mô đồ sộ, niên đại được xây dựng những
năm gần đây. Dáng vẻ uy linh của tam quan còn nhờ vào hệ thống cột xây kiểu
"cột đồng trụ" đỉnh đắp nụ sen. Tòa tam bảo của chùa được bày trọn vẹn
trong tòa hậu cung của phật điện. Trên các bệ xây bằng gạch cao từ ngoài vào
trong. Ở nơi cao và sâu nhất của Phật điện là vị trí ngự của bộ tượng Tam thế.
Hàng thứ hai là bộ tượng Di. Hàng thứ ba, pho ngồi giữa là Đức Quan âm chuẩn đề,
hai bên là hai vị Bồ Tát. Hàng thứ tư, giữa là tòa cứu long cùng Thích Ca sơ
sinh, hai bên là Nam Tào và Bắc Đẩu.
Ban thờ
bên trái tòa tiền đường là tượng Thánh Tăng hay còn gọi là tượng An Nan đà đầu
đội thất phật. Ban thờ bên phải đặt tượng Đức ông trong long khám. Khung phật
điện là sự liên kết của gỗ, chỉ có mộng mẹo, những cột lớn, cột nhỏ đứng thẳng
trên từng hòn kê bằng đá tảng được gia công cẩn thận.
Bộ phận
quan trọng nhất của khung nhà là vì kèo và các vì đều được làm giống nhau theo
lối “chồng rường giá chiêng". Các bộ phận như con rường, đấu, cột trốn... chồng
lên cao tận nóc, không che lấp nhau, tạo ra những diện rộng để người xưa trang
trí. Lối kết cấu khoa học này góp phần tạo nên nét độc đáo của nghệ thuật kiến
trúc cổ truyền Việt nam.
Trải
qua thời gian, một số đi vật hiện còn được bảo lưu tại chùa Xâm Bồ
- Nhang
án gỗ: Số lượng 1 chiếc, kích thước cao 1,27, dài 1,58m, rộng 0,73m. Vị trí đặt
làm hương án tiên ở tòa Tam bảo. Niên đại dựa vào phong cách chạm khắc đồ án
trang trí rồng và hoa lá cánh điệu, di vật này vào niên đại thế kỷ XVIII, thời
Lê.
- Tượng
Đức ông: Trông như viên quan thời phong kiến nét mặt cương nghị đầy tính áp chế,
sẵn sàng trừng trị kẻ ác.
- Tượng
Tổ: 4 pho, chất liệu gỗ, niên đại thế kỷ XIX. Tượng được tạc theo khuôn mẫu của
những nhà sư từng trụ trì trong các chùa: Đầu trọc, mặc áo cà sa, tai to, trán
cao thần thái khoan thai tự tại. Tượng cao 72cm. Ngoài ra, còn một số pho Tượng
Quan âm Thiên Thủ Thiên, Pho tượng Phật bà, Tượng Thánh Tăng.
Ngày 13 tháng 02 năm 1996, Bộ
Văn hóa - Thông tin ra Quyết định số 310-QĐ/BT công nhận Miếu – Chùa Xâm Bồ là Di
tích Lịch sử, Nghệ thuật cấp quốc gia./.