ĐẢNG
BỘ VÀ NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
GÓP
PHẦN LÀM NÊN THÀNH CÔNG CỦA
ĐƯỜNG
HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN
------
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước sự phát triển mạnh mẽ của
phong trào cách mạng miền Nam và nhu cầu chi viện cho đồng bào, chiến sĩ miền
Nam ngày càng lớn, con
đường chi viện trên bộ (đường Trường Sơn) chưa thể mở tới vùng sâu, vùng xa các
chiến trường Nam Bộ. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập Đoàn 759,
tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân và đây cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời
“Đường Hồ Chí Minh trên biển”. Cùng với đường Trường Sơn
(đường mòn Hồ Chí Minh), Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một biểu
tượng sáng ngời về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh Nhân dân,
một quyết định chiến lược của Đảng và Bác Hồ. Với việc chi viện trên biển, từ hậu phương lớn miền Bắc mà đích đến là
những bến bãi, kho tàng được bố trí dọc theo bờ biển miền Nam. Con đường thể
hiện ý chí, khát vọng độc lập tự do và thống nhất đất nước của dân tộc ta.
Tuyến đường với những con tàu không số đã gắn liền với tên tuổi, địa danh và
biết bao chiến công, kỳ tích của những anh hùng liệt sĩ, quân, dân các địa
phương, trong đó có Đảng bộ và Nhân dân
thành phố Hải Phòng, góp
phần quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
1. Cầu
tầu Đồ Sơn, Hải Phòng - điểm xuất phát Đường Hồ Chí Minh trên biển
Nhằm
giữ bí mật, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho công tác vận chuyển, việc chọn địa
điểm trú đậu, nhận hàng và xuất phát của các con tàu không số được đặc biệt chú
trọng. Là cảng lớn của Miền Bắc, nơi tập kết hàng chi viện của các nước xã hội
chủ nghĩa cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; với vị trí đắc địa của bán
đảo Đồ Sơn - đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về kỹ thuật và yếu tố bí mật tuyệt đối,
Hải Phòng vinh dự được lựa chọn là điểm khởi đầu, là bến xuất phát cho cả năm
tuyến đường vận tải trên biển.
Từ bãi tắm
khu 2 Đồ Sơn, vượt qua Pa-gốt-đông (PAGODON bãi tắm cổ từ thời Pháp), chạm dốc
lên núi Vạn Hoa, nhìn sang bên phải là những cọc bê tông nhô lên mặt biển, đó
là dấu tích mang mật danh K15, “cây số 0” của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Nơi
đây có một cầu cảng “Anh Hùng”, điểm xuất phát của những con “tàu không số” chở những con người và hàng
hóa đặc biệt, đi trên con đường đặc biệt trên biển đưa vũ khí vào chiến trường miền Nam.
Sau khi đoàn
759 được thành lập (23/10/1961), một thời gian chuẩn bị, vào
22h đêm ngày 11/10/1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên mang số hiệu 41 - Phương Đông 1,
chở 30 tấn vũ khí bí mật xuất phát tại Vạn Sép, Đồ Sơn lên đường. Tàu khởi hành
gồm 13 thủy thủ đều là các chiến sĩ miền Nam tập kết do đồng chí Lê Văn Một làm
thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa làm chính trị viên. Sau 6 ngày lênh đênh
trên biển, gặp vô vàn khó khăn, sóng to, gió lớn và cả sự phong tỏa của giặc dưới
biển cũng như trên bờ. Đến ngày 16/10
tàu cập bến Vàm Lũng, Cà Mau. Toàn bộ 30 tấn vũ khí được chuyển giao cho bộ đội
quân khu 9.
Trước
thành công ban đầu về con đường vận chuyển chi viện chiến lược trên biển, miền
Nam lại đang yêu cầu chi viện nhiều vũ khí, cơ sở vật chất để đánh Mỹ. Bộ Chính
trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo tiếp tục đẩy nhanh việc đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất bảo đảm và phát triển lực lượng của Đoàn 759.
Từ nhận thức đúng đắn, xác định rõ vị
trí, vai trò của từng miền trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ, để chuẩn bị cho
việc xây dựng cầu tàu, Bộ Quốc Phòng và Đoàn 759 đã đề xuất đặt điểm xuất phát tại
Bến K15. Được sự ủng hộ của thành phố Hải Phòng và chính quyền Đồ Sơn, đặc biệt
là nhân dân bến bãi, các gia đình ngư dân đã sống và gắn bó nhiều đời ở đây đã
nhiệt tình hưởng ứng, vui vẻ dời ra khu I của bán đảo, dành khu II và khu III
cho nhiệm vụ quân sự.
Việc xây dựng cầu cảng cũng như doanh trại
hậu cần đã nhanh chóng được triển khai. Chính quyền, công an thành phố trong
một thời gian ngắn đã làm trong sạch tình hình chính trị trên bán đảo, kiểm
soát chặt chẽ người và tàu thuyền qua lại trong khu vực phục vụ cho việc xây
dựng bến. Các kho hàng, nhà ăn, nhà máy nổ, nhà Ban chỉ huy và nhân viên làm
nhiệm vụ ở bến được khẩn trương hoàn thành, bảo đảm an toàn. Trong suốt quá
trình xây dựng Bến K15, cũng như mọi hoạt động phục vụ Đoàn 759 đều được đảm
bảo hết sức bí mật.
Tháng
11/1962, Bộ tổng tham mưu đã chọn Vụng
Sét (phường Vạn Sơn) là nơi xây dựng bến xuống hàng (Bến K15). Chuẩn bị nạo vét
luồng khu vực Đồ Sơn - Long Châu, thả phao, treo biển “khu vực cấm”, xây dựng
doanh trại dã chiến với yêu cầu nhiệm vụ, đảm bảo kỹ thuật, an
toàn và bí mật, khẩn trương hoàn thành trong thời gian sớm nhất.
Đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, cán bộ chiến sĩ đội 5 phòng doanh trại Bộ Tham mưu, đơn
vị Công binh 83 và lãnh đạo địa phương tiến hành khảo sát thực địa, tìm
vị trí công trình, nghiên cứu lập đồ án thiết kế, chuẩn bị mặt bằng thi công. Ngày 2 tháng 12 năm 1962, chiếc cọc đầu
tiên được khởi công. Cầu dài 60m, chiều ngang 12m, độ rộng cầu là 6m, chân cầu đóng cọc bê tông, mặt cầu bằng
ván gỗ, trong quá trình xây dựng, các đơn vị hết sức cố gắng, khắc phục mọi khó
khăn, đến cuối tháng 2 năm 1963 cầu cảng hoàn thành và bắt đầu thực hiện nhiệm
vụ lịch sử của nó.
Tuyến chi viện chiến lược Bắc Nam trên biển mang tên
Hồ Chí Minh đã khai mở. Từ đây, lịch sử ghi nhận K15 Đồ Sơn là bến xuất phát
Đường Hồ Chí Minh trên biển. Tính đến tháng 2/1965 Bến K15 liên tục xuống hàng.
Bình quân không đầy sáu ngày đã có một tàu với gần 57,5 tấn vũ khí đi miền Nam.
Từ đó liên tiếp, bến K15 Đồ Sơn đã có gần trăm chuyến tàu chở hơn 5.200 tấn vũ
khí đi trót lọt. Trong quá trình làm nhiệm vụ “vì miền Nam ruột thịt” Bến K15 luôn luôn giữ bí mật và an toàn tuyệt
đối, điều đó đã góp phần làm nên những chiến công huyền thoại của lực lượng vận
tải thủy chiến lược.
Cùng với Bến K15 còn có Bến K35 ở bên kia Vụng Sét
cũng thuộc phường Vạn Hương - nơi doanh trại của đơn vị công an vũ trang bàn
giao cho Đoàn 759. Đây là căn cứ sử dụng vào việc học tập chính trị, huấn luyện
quân sự chuyên môn, kỹ thuật. Bến K35 trở thành trung tâm huấn luyện “chuyển
binh chủng” hỗ trợ bến K15 theo yêu cầu hoạt động chiến đấu đặc biệt của tàu
không số.
Từ đây Bến K15
trở thành bến xuống hàng chủ yếu cho tàu chở vũ khí vào Nam. Cầu cảng K15 Đồ
Sơn không chỉ là biểu tượng chiến thắng của những người lính Hải Quân nhân dân
Việt Nam, là niềm tự hào của Hải Phòng mà còn là niềm vinh dự lớn cho cả nước.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã viết: “Năm tháng
sẽ qua đi nhưng chiến công anh hùng và sự hi sinh cao cả của các lực lượng mở
đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu trên biển Đông của những con
tàu không số, quân và dân bến bãi làm nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại sẽ mãi mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh
dũng kiên cường của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
quang vinh”.
Trong
những ngày tháng ác liệt nhất, với truyền thống “Trung dũng - Quyết thắng”, Hải
Phòng vẫn luôn ngoan cường, bất khuất, dù phải đương đầu với cuộc chiến tranh
hủy diệt, là trọng điểm bắn phá, phong tỏa của đế quốc Mỹ. Bến cảng K15 vẫn luôn luôn được giữ bí mật và
đảm bảo an toàn tuyệt đối qua bao đợt cường kích, phong tỏa của không
quân và hải quân Mỹ, để những
chuyến tàu không số vẫn rời bến, chở vũ khí vào Nam. Trong lịch sử 14 năm
(1961-1975) của con đường chiến lược trên biển, Bến cảng K15 Đồ Sơn là nơi có
số lần tàu xuất phát nhiều nhất với gần 100 chuyến trong tổng số 168 chuyến tàu
vào Nam, vận chuyển hơn 5.200 tấn vũ
khí đi trót lọt. Đoàn tàu “không số” đã dệt nên huyền thoại đường Hồ Chí
Minh trên biển với hệ thống 5 tuyến đường khác nhau, phù hợp với yêu cầu thực
tế của từng thời kỳ và Bến K15 - Đồ Sơn Hải Phòng tự hào khi luôn vững vàng ở
vị trí điểm đầu của cả 5 tuyến đường vận tải đó.
2. Hải Phòng căn cứ hậu phương lớn của
Đoàn 759, góp
phần làm nên con đường huyền thoại trên biển
2.1. Về cơ sở vật chất (đóng tàu)
Quân ủy
Trung ương nhận thấy nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam còn
phải lâu dài, vấn đề cấp thiết là phải có những con tàu tốt hơn, trọng tải lớn
hơn, nhằm chở được nhanh và nhiều hàng chi viện cho tiền tuyến. Để bảo đảm được yếu tố bí mật, bất ngờ,
đoàn 759 cần phải có những tàu thuyền giống với kiểu dáng của tàu thuyền ở miền
Nam. Theo chỉ đạo của Bộ quốc phòng, đoàn 759 một mặt sửa chữa chiếc thuyền của
Trà Vinh, mặt khác đóng mới 4 chiếc thuyền gỗ gắn máy theo kiểu thuyền đánh cá
của ngư dân miền Nam, có trọng tải 30 tấn, với yêu cầu thời gian hoàn thành sớm
nhất. Số thuyền này được giao cho Xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng thực hiện. Để bảo
đảm giống với thuyền máy miền Nam cần phải có loại máy đẩy của các nước tư bản
sản xuất, như vậy mới không bị lộ bí mật. Các thuyền được lắp máy skođa của
Tiệp Khắc, trông cũng giống như máy của các nước tư bản phương tây. Để đảm bảo
kế hoạch thời gian theo yêu cầu của Bộ quốc phòng, Xưởng đóng tàu 1 cung ứng
vật tư, tăng cường nhân lực, thuê mượn công nhân, tranh thủ thời gian lao động
sản xuất cả ngày và đêm để hoàn thành kế hoạch.
Bốn chiếc tàu gỗ mang tên Phương Đông
đưa vũ khí vào Cà Mau trót lọt, khẳng định ta có thể mở con đường vận chuyển
lâu dài trên biển. Nhưng tàu gỗ tải trọng thấp, không an toàn, lại phải chọn thời
điểm đi vào lúc sóng to, gió lớn để tránh địch. Vấn đề đặt ra là cần có
phương tiện tốt hơn để hoạt động dài ngày, chống chịu được mọi điều kiện khắc
nghiệt nhất của thời tiết. Chủ trương của Quân
uỷ Trung ương là cần nhanh chóng có loại tàu sắt từ 50 đến 100 tấn làm phương
tiện cho Đoàn 759.
Thực hiện chủ trương
đó, ngày 27/10/1962, cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu thay mặt Bộ quốc phòng ký
với Bộ giao thông vận tải đóng mới 6 tàu vận tải vỏ sắt, có trọng tải từ 50 tấn
đến 100 tấn. Kế hoạch được giao cho Xưởng đóng tàu 3 Hải Phòng
(nay là Nhà máy Đóng tàu Bạch Đằng) thực hiện, thời gian từ quý IV/1962 đến
cuối năm 1963 phải xong.
Từ cuối năm 1962 sang
đầu năm 1963, công việc đóng tàu sắt có trọng tải lớn được xúc tiến hết sức
khẩn trương nhưng tuyệt đối bí mật về mục đích sử dụng. Nhận rõ việc đóng tàu
cho Bộ quốc phòng lúc này là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt nên các đồng chí lãnh
đạo Bộ giao thông vận tải, Cục cơ khí, Giám đốc Xưởng đóng tàu đã rất nỗ lực trong
việc bảo đảm vật tư, máy móc thiết bị và chỉ đạo tổ chức thi công. Ngày 8/2/1963,
chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên có trọng tải 60 tấn được Xưởng đóng tàu 3 Hải Phòng bàn giao cho đoàn 759. Đây là một cố
gắng vượt bậc của cán bộ, công nhân trong xưởng. Tàu được lắp máy của Cộng hoà
dân chủ Đức. Có các phương tiện hàng hải bảo đảm cho tàu đi biển dài ngày nên
tàu có thể ra vào các kênh rạch thuộc châu thổ sông Cửu Long dễ dàng. Các tàu mới
của ta cải trang che mắt địch khá tốt, tránh được sự kiểm soát của chúng nên
các chuyến đi đều đã đưa hàng tới đích an toàn. Từ đây, theo chỉ đạo của cấp
trên, đơn vị đã bố trí các chuyến tàu đi, về xen kẽ nhau, vì thế số lần vận
chuyển tăng lên rõ rệt.
Để
đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ vận chuyển chi viện chiến trường, những ngày này
không khí làm việc ở Xưởng đóng
tàu hết sức khẩn trương. Phong trào thi đua thêm ca, thêm giờ,
nâng cao năng suất lao động được anh em kỹ sư, công nhân kỹ thuật hưởng ứng
nhiệt tình, làm việc suốt ngày đêm để các con tàu sớm ra xưởng đã mang lại kết
quả rất lớn. Sau ngày bàn giao chiếc tàu thứ nhất, liên tiếp trong các tháng 4,
5, 6, 7 và 9 năm 1963, Xưởng
đóng tàu 3 Hải Phòng đã lần lượt cho hạ thuỷ chiếc tàu thứ
2, thứ 3, thứ 4, thứ 5 và thứ 6 bàn giao cho đoàn 759, hoàn thành kế hoạch
trước 3 tháng. Đây là tình cảm và quyết tâm rất cao của cán bộ, công nhân ở xưởng,
vượt lên muôn vàn khó khăn, lao
động sản xuất vì miền Nam ruột thịt, là sự đóng góp rất thiết thực để chi viện
kịp thời cho tiền tuyến.
Những
năm 1963-1964, phong trào cách mạng miền Nam phát triển mạnh mẽ, để đáp ứng yêu
cầu của chiến trường, Xưởng đóng tàu 3 Hải Phòng đã góp phần to lớn của mình
với những con tàu sắt, có trọng tải lớn hơn phục vụ công tác vận chuyển. Ngày
17/3/1963, chuyến tàu sắt đầu tiên do Thuyền trưởng Ðinh Ðạt chỉ huy chở 44 tấn
vũ khí lên đường, đến đêm 23 rạng sáng 24/3 cập bến Bát Sát (Trà Vinh). Chuyến
đi thành công trước sự ngỡ ngàng của quân và dân Trà Vinh. Chiến công này đã có
sự đóng góp rất lớn của tập thể Xưởng đóng tàu 3 Hải Phòng. Chỉ trong một năm,
mặc dù gặp nhiều khó khăn về phương tiện, trang bị, nhưng Xưởng đóng tàu 3 đã
tích cực, vượt qua mọi thử thách hoàn thành 10 con tàu sắt bàn giao cho Ðoàn
759. Ðây là dấu hiệu mở màn cho giai đoạn phát triển nhảy vọt của công tác vận
chuyển quân sự trên biển.
2.2.
Về vị trí, địa điểm
Để che mắt quân địch, ngoài Bến K15, trên địa
bàn thành phố Hải Phòng còn có 22 hậu cứ của Đoàn 759. Các cơ sở này được thay
đổi liên tục để khỏi bị chúng phát hiện. Từ sở chỉ huy cho đến những đơn vị cơ
sở đều được hoạt động một cách bí mật, nơi chứa toàn bộ hàng hóa đặc biệt phục
vụ Đoàn như: Khách sạn Vạn Hoa được
bố trí làm kho tập kết hàng, để chuyển xuống cầu tàu được nhanh chóng; số nhà 80 và 386 Lê Lai là nơi nghỉ dưỡng của
các đội tàu miền Nam (1962 - 1965); xưởng 1 nơi đóng 4 con tàu gỗ (nay là số
6/215 Lê Lai, Hải Phòng); số nhà 106 Hồng Bàng (nay là phố Điện Biên Phủ) là cơ
sở chỉ huy của Đoàn bộ (1964 - 1965); số nhà 7 đường Lạch Tray - nơi huấn luyện
Thiên văn; Kha Lâm, Kiến An, núi voi An Lão - nơi kho hàng đi B của đội xe vận
tải (1963 - 1965); Đài thiên văn Phù Liễn, Kiến An là Trung tâm thông tin (1963
- 1965); bến K20 Hoa Động - nơi xuống hàng sơ tán của Đoàn bộ (1965 - 1972); đình
Mỹ Cụ xã Mỹ Đồng, xã Kiền Bái - nơi Sở chỉ huy sơ tán và Trung tâm thông tin
(1966); xã Liên Khê, Lưu Kiếm (1967 - 1968) là sở chỉ huy Đoàn bộ; xã Minh Tân,
Liên Khê - Sở chỉ huy Thông tin B15 (1968 - 1969); đình Tân Dương là kho chứa hàng
(1970); xã Thủy Đường là cơ quan Đoàn bộ và sở Chỉ huy (1972) và Cảng Dụ Nghĩa
là nơi xuống hàng (1972-1975)…
Đây là những hậu cứ quan trọng, góp phần làm
nên kỳ tích của Đoàn 759. Trong suốt một thời gian dài (hơn 10 năm), tại mỗi vị
trí, địa điểm nơi đây đều trở nên gần gũi, gắn bó. Nơi gắn kết tình quân dân -
nơi che giấu bảo vệ cán bộ cách mạng và
nhiều loại hàng hóa đặc biệt để gửi ra tiền tuyến.
2.3. Về con người
Con
đường vận tải trên biển mang tên Bác Hồ kính yêu, mỗi chuyến đi của những con
tàu không số là một cuộc đọ sức, một cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt với kẻ
thù hung bạo hơn ta nhiều lần về sức mạnh, là đối mặt với sự khắc nghiệt của
thiên nhiên. Mỗi chuyến ra đi là một lần bạn bè, anh em, đồng chí, đồng đội làm
“lễ truy điệu sống”, là một lần xác định cảm tử... Nếu bị lộ thì phải kiên
quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, sẵn sàng lao thẳng vào tàu địch hoặc
điểm hỏa nổ tàu để bảo vệ vũ khí, trang bị, bảo vệ hàng hóa, để giữ bí mật con
đường... Nhiều tấm gương hy sinh anh dũng, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, như
các Anh hùng Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Chánh Tâm, Nguyễn Văn Hiệu... Các anh mãi
mãi nằm lại với biển khơi.
Trong
số 119 liệt sĩ của Ðoàn 125 Hải quân đã hy sinh trên biển, có 7 liệt sĩ
quê ở Hải Phòng. Ðó là các liệt sĩ Nguyễn Văn Khỏng ở Hải An; Hoàng Thanh Loan
ở Cát Bà; Ðỗ Văn Măng ở Kiến Thụy; Hà Văn Ðộng, Lê Xuân San, Nguyễn Thanh Hải ở
huyện Thủy Nguyên; Lu Ðình Thẻ, Ðoàn Khắc Hạnh ở Ðồ Sơn; Ðỗ Quốc Văn ở Vĩnh Bảo.
Những người chiến sĩ hi sinh trên bộ còn có nấm mồ, nhưng những chiến sĩ của đoàn
tàu không số hi sinh thì mãi mãi nằm lại dưới biển khơi lạnh giá. Các anh đã
hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, viết nên bản hùng ca trên biển.
Thành
công của Đường Hồ Chí Minh trên biển là sự đóng góp không hề nhỏ về vật chất
cũng như tinh thần của Đảng bộ quân và dân thành phố Hải Phòng. Có lẽ ít ai
biết đến con đường lịch sử đó, bắt đầu từ đâu và hoạt động như thế nào. Bởi vì
tính bí mật, cầu cảng K15 Đồ Sơn - Hải Phòng đã có những chiến công thầm lặng
và rất oanh liệt. Cùng với sự hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường vận tải
chiến lược trên Biển Ðông, những con tàu không số sẽ mãi mãi đi vào lịch sử đấu
tranh của dân tộc, trở thành bất tử, là niềm tự hào, ngưỡng mộ của thế hệ trẻ
hôm nay, tô thắm thêm truyền thống “Trung dũng, quyết thắng” của thành phố Cảng
anh hùng.
Không chỉ tự hào
với sự lựa chọn của Trung ương Đảng, Hải Phòng còn tự hào được đóng góp sức
người, sức của cho hoạt động của tuyến đường vận tải chiến lược. Lịch sử tuyến
đường vận tải Hồ Chí Minh trên biển, tinh thần quả cảm, sự hy sinh anh dũng của
các cán bộ, chiến sĩ trên những con tàu không số, trong đó có những người con
của Hải Phòng trở thành một phần lịch sử anh hùng của Hải quân nhân dân Việt
Nam, của Quân đội Nhân dân Việt Nam và cũng là niềm tự hào của thành phố Cảng
“Trung dũng - Quyết thắng”.
Phát huy truyền thống đó, Đảng bộ quân và dân
thành phố Hải Phòng quyết tâm phát huy những giá trị lịch sử truyền thống,
những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam trong thời đại mới, nêu cao ý
chí quyết tâm, tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức cách mạng, tích cực học tập,
nâng cao nhận thức, trình độ về mọi mặt, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu
trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo trong đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới, góp phần xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng và
phát triển Hải Phòng trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và của cả nước./.
Tài liệu tham khảo
1- Nhân chứng lịch sử: Bác Trần Phong, Bác Hữu,
Bác Lịch, Bác Bình (Cựu chiến binh đoàn tàu không số);
2- Lịch
sử Đảng bộ Hải Phòng Tập II (1996), Nxb: Hải Phòng;
3- Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển;
4 - Đề cương tuyên truyền đường Hồ Chí Minh
trên biển;
5 - Hồ sơ di tích lịch sử kháng chiến Bến
tàu Không số - K15.