TRẬN TẬP KÍCH SÂN BAY CÁT
BI,
Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM
------
Sân bay Cát Bi được người Pháp khởi công xây dựng năm 1912. Diện tích
sân bay rộng 1.400 héc ta, trong đó 500 héc ta xung quanh là vành đai trắng, có
hai đường băng chéo nhau được thiết kế cho phi cơ hạng nặng có thể lên xuống
được. Đây
là sân bay lớn nhất Đông Dương được giặc Pháp tái thiết sau ngày chúng trở lại
xâm lược nước ta lần thứ hai - là một sân bay chiến lược của thực dân Pháp - là
cầu hàng không chi viện cho cả chiến trường bắc Đông Dương và mặt trận Lào. Thực
dân Pháp đã biến nơi này thành một hệ thống cụm cứ điểm mạnh để bảo vệ Thượng
Lào, tạo bàn đạp tiến công chiếm lại vùng Tây Bắc nước ta và tiêu diệt quân chủ
lực của ta. Với sự bố phòng cẩn mật, vững
chắc, lại thêm ba mặt Bắc, Đông và Nam đều có biển và sông bao bọc, căn cứ Cát
Bi đã được địch coi là nơi “bất khả xâm phạm”. Năm 1952 - 1953, sân bay
Cát Bi được thực dân Pháp tái thiết, mở rộng và nâng cấp để trực tiếp phục vụ
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Pháp coi đây là một nơi trú quân an toàn, một
đồn lũy kiên cố để tiếp nhận và vận chuyển vũ khí, viện binh, viện trợ của Mỹ
gửi qua cảng Hải Phòng tới các mặt trận và cứ điểm Điện Biên Phủ.
Mặc dù trước đó chưa có kế hoạch
phối hợp tác chiến cụ thể với chiến trường Điện Biên Phủ, nhưng khi Bộ Chính
trị quyết định chủ trương tác chiến Đông Xuân (1953 - 1954), Khu ủy và Bộ Tư
lệnh khu Tả Ngạn đã chỉ rõ: “Tích cực nắm
sơ hở địch, đẩy mạnh các hoạt động du kích, chủ động đánh phá càn quét nhỏ để
phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ”.
Tỉnh đội Kiến An được Quân khu
giao cho trực tiếp tham gia tập kích vào sân bay Cát Bi, phối hợp với chiến
dịch Đông Xuân năm 1953-1954. Dựa vào kết quả của công tác trinh sát, ta đã lên
được phương án tác chiến tỉ mỉ, đồng thời chuẩn bị phương án huấn luyện bộ đội
sát với thực tế yêu cầu của trận đánh.
Kế hoạch trận đánh sắp được tiến
hành thì địch tăng cường càn quét khủng bố. Việc chuẩn bị hầm bí mật của cơ sở
bị địch tàn phá gần hết. Nhiều cán bộ, đảng viên và quần chúng bị bắt, bị giết.
Tổ chức phải tăng thêm cán bộ xuống các xã vận động quần chúng tăng cường phòng
gian giữ bí mật, đấu tranh giành giật với địch để bảo vệ cơ sở.
Chấp hành chủ trương của Trung
ương về tổ chức phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, Bộ Tư lệnh Khu Tả
Ngạn() chỉ thị cho Tỉnh đội
Kiến An: Tổ chức một trận tập kích vào sân bay Cát Bi, phá hủy một số lớn máy
bay địch để phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ, làm cản trở sự chi viện
của địch cho các mặt trận, thúc đẩy chiến tranh du kích của ta trong vùng địch tạm
chiếm. Yêu cầu đặt ra cho trận đánh là
phá hoại ít nhất 50 máy bay, bảo toàn lực lượng, giành thắng lợi về quân
sự.
Chấp hành chỉ thị của trên,
nghiên cứu kỹ tình hình thực tế, Tỉnh uỷ Kiến An chỉ thị cho Ban chỉ huy Tỉnh
đội là: Chấp hành sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Khu Tả Ngạn, Tỉnh ủy Kiến An dùng lực lượng trực tiếp tập kích sân bay gồm 32
đồng chí bí mật luồn sâu đột nhập vào sân bay, tiến công thành hai mũi vào các vị trí được phân
công. Hướng đột nhập vào sân bay là hướng Đông Nam. Mục tiêu tiến công chủ yếu
là khu máy bay đỗ trên đường băng chính và đường băng phụ, bố trí lực lượng
nhỏ, có chất lượng chiến đấu cao, hành động bí mật, bất ngờ đột nhập sân bay,
phá hủy một số lớn máy bay, đánh nhanh, rút nhanh về căn cứ trước khi trời
sáng.
Nhận định
đánh giá tình hình, địa bàn, lực lượng giữa ta và địch đưa ra kế hoạch tập kích
đánh Sân bay Cát Bi
Sân bay Cát Bi nằm sâu trong vùng
chiếm đóng của quân Pháp thuộc huyện Hải
An, tỉnh Kiến An (nay là quận Hải An, thành phố
Hải Phòng). Xung quanh sân bay, địch tạo thành một vành đai trắng rộng hàng
trăm mét. Phía Bắc, sân bay cách trung tâm thành phố Hải Phòng 7km; từ hướng
Đông Bắc vòng xuống Tây Nam đều giáp sông và biển, tạo thế độc lập và ngăn cách
sân bay với với các vùng giáp ranh Kiến Thuỵ và xa hơn nữa là vùng tự do Tiên
Lãng của ta. Ta muốn vào đánh sân bay thì phải vượt qua nhiều sông ngòi, vùng
dân cư thưa thớt, khó trụ lại sau trận đánh, mà đánh song phải rút nhanh về căn
cứ trước khi trời sáng để bảo đảm an toàn. Thời tiết diễn ra trận đánh vào
tháng giêng, tháng hai, gió mùa Đông Bắc có ảnh hưởng tới tốc độ hành quân,
tiếp cận mục tiêu, nhưng cũng tạo được thuận lợi cho ta bí mật hành động.
Về tình
hình địch: Là một trong những sân bay chiến lược lớn nhất của quân Pháp ở Đông Dương,
được trang bị hiện đại và bảo vệ rất nghiêm ngặt. Lực lượng bảo vệ sân bay
khoảng 3.000 tên còn hàng trăm phi công, nhân viên phục vụ và 44
cố vấn quân sự Mỹ. Trang bị vũ khí có 25 trọng liên, 13 cối 81 mm, 13 vị trí trọng liên bố trí thành một cụm phòng không bảo vệ sân
bay. Khả năng sân bay có thể chứa 500,
nhưng thường xuyên có khoảng 277 chiếc, ngoài ra còn nhiều kho đạn, quân
trang, quân dụng. Xung quanh sân bay có 6 hàng rào dây thép gai bao bọc, gồm
các loại hàng rào đơn, mái nhà, cũi lợn, bùng nhùng. Sân bay có 77 lô cốt, tháp
canh kiên cố, bố trí giải khắp sân bay; 22 vị trí chiến đấu bên ngoài hàng rào
thứ nhất tính từ ngoài vào; 38 vị trí chiến đấu rải ra giữa các hàng rào bên
trong và trong sân bay; 5 vị trí chiến đấu rải dọc đường 14 từ cầu Rào đến Quý
Kim để bảo vệ sân bay từ xa. Khoảng cách giữa các hàng rào, lô cốt, tháp canh
đều có lực lượng kiểm soát và các bãi mìn, vật cản gây tiếng động khi va chạm.
Cứ 30 phút một lần, các đội tuần tra bằng xe cơ giới mang theo chó săn lùng sục
quanh sân bay. Địch thường xuyên tổ chức những trận càn quét sâu vào vùng nông
thôn Kiến Thuỵ, lập tề để tạo thành khu đệm ngăn cách sân bay với vùng tự do
Tiên Lãng của ta.
Về tình
hình ta: Do địch thực hiện vành đai trắng, khủng bố gắt gao những vùng xung quanh để
bảo vệ sân bay, do đó, ta chưa xây dựng cơ sở xung quanh sân bay thuộc huyện
Hải An; các xã Tân Phong, Hợp Đức, Hòa Nghĩa... thuộc huyện Kiến Thuỵ có cơ sở
Đảng, nhưng hoạt động còn yếu. Trong khi đó, địch tổ chức mạng lưới tề dõng,
chỉ điểm thường xuyên càn quét, bắt bớ hòng lung lạc tinh thần của nhân dân,
phá cơ sở kháng chiến của ta. Các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Kiến An đã có
nhiều kinh nghiệm đánh vào các căn cứ, kho tàng nằm sâu trong lòng địch, nhưng
chưa có nhiều kinh nghiệm đánh sân bay.
Ngày 28/2/1954, Ban chỉ huy và
đồng chí Đặng Kinh - Tỉnh đội trưởng thông qua kế hoạch đánh sân bay Cát Bi của
đồng chí Minh Khánh (tức Lê Thừa Giao) - Chỉ huy trưởng trận đánh. Quân ta đã
chuẩn bị, bố trí các lực lượng, thời gian, rất công phu, tỉ mỉ, tập dượt nhiều lần, để tập kích đánh Sân bay
Cát Bi.
Lực lượng bảo đảm chiến đấu gồm:
Quân báo Tỉnh đội đảm nhận nắm cơ sở, trinh sát địch, xác định khu vực, mục
tiêu tiến công và chuẩn bị địa bàn tác chiến, do đồng chí Mai Năng phụ trách.
Để chuẩn bị cho trận đánh này, lực lượng quân báo đã phải 36 lần vào trinh sát
sân bay, xây dựng cơ sở. Lực lượng phối hợp chiến đấu gồm: 2 tổ thuộc Đại đội
198 có nhiệm vụ phá đường 14, đánh chặn xe cơ giới địch từ ngã ba Ninh Hải
xuống, từ Đồn Riềng lên, không cho địch chặn đường vào ra của ta qua đường 14,
quãng quán Hòa Nghĩa. Bộ đội địa phương huyện Kiến Thuỵ kết hợp với du kích bí
mật bám sát các đồn Quý Kim, Đồng Mô, Phúc Xá, Lão Phong. Hai tiểu đội của các
Đại đội 295 và 198 áp sát, bao vây các đồn Riềng, Tạm Xá, sẵn sàng kiềm chế
địch trong vị trí để bảo vệ đường rút của quân ta về căn cứ. Hai tiểu đội của
Đại đội trợ chiến 29 và Đội đánh thuỷ lôi (giao thông chiến) được trang bị 2
ba-zô-ca và thuỷ lôi tự tạo, bố trí trận địa phục kích dọc đê Văn Úc từ xóm Vo
Am đến bến đò Dương Áo, Tiên Lãng, sẵn sàng đánh ca-nô, tàu chiến địch trên
sông Văn Úc, bảo vệ bến vượt sông và khu giấu thuyền đón bộ đội qua sông.
Lực lượng chiến đấu gồm 32 người,
được chọn từ các đơn vị tập trung của Tỉnh đội: Đại đội 295, Đội quân báo
208..., tổ chức thành một đội chiến đấu, do đồng chí Minh Khánh, Trưởng ban Tác
chiến Tỉnh đội chỉ huy. Lực lượng chiến đấu được tổ chức hai mũi: Mũi 1 gồm 17
chiến sỹ do đồng chí Minh Khánh chỉ huy; Mũi 2 gồm 15 đồng chí, do đồng chí Đỗ
Tất Yến, Đại đội trưởng Đại đội 295 phụ trách. Từng mũi tổ chức thành tổ 3
người, được trang bị súng, lựu đạn, dao găm và mỗi người có 3 quả bộc phá.
Dưới quyền chỉ huy của đồng chí
Lê Thừa Giao và đồng chí Đỗ Tất Yến nhận lệnh xuất phát. Trước thời điểm đó, đồng chí Dương Hữu Miên, tư lệnh Khu, các
đồng chí Thường vụ Tỉnh ủy và đồng chí Đặng Kinh, tỉnh đội trưởng đã trực tiếp
đến động viên và giao nhiệm vụ cho đơn vị.
Diễn biến trận tập kích
18 giờ ngày 5 tháng 3 năm 1954,
đơn vị tập kích sân bay gồm 32 người xuất phát từ Chử Khê, Hùng Thắng, Tiên
Lãng, sau đó tổ chức vượt sông Văn Úc bằng thuyền qua đò Dương Áo sang Tân
Trào, Cổ Trại, bơi qua sông Đa Độ sang Minh Tân, Tân Phong. Đến 4 giờ ngày 6
tháng 3 năm 1954, bộ đội xuống hầm bí mật ở Hợp Lễ, Hòa Nghĩa thuộc xã Hòa
Nghĩa, huyện Kiến Thuỵ. 18 giờ ngày 6 tháng 3, bộ đội lên khỏi hầm bí mật, tập
trung tại đầu làng Hòa Nghĩa, cán bộ kiểm tra vũ khí, trang bị của từng người,
nhắc lại nhiệm vụ và động viên bộ đội quyết tâm chiến đấu, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ.
19 giờ 45 ngày 6 tháng 3, bộ đội
hành quân từ Hòa Nghĩa qua Quán He, đường 14, vượt qua sông Lạch Tray, lội qua
bãi lầy, men theo đường vòng dài hơn 10 km trong đêm tối và gió lạnh. Đến gần
hàng rào thứ nhất thì dừng lại, cán bộ chỉ huy quan sát nhận đúng hướng và mục
tiêu, lệnh cho tổ quân báo lên cắt hàng rào, mở 2 cửa. Địch trong sân bay luôn
đi tuần và chiếu đèn pha, nên việc mở cửa phải mất 1 giờ.
Lúc 0 giờ ngày 7 tháng 3, Mũi 1
do đồng chí Minh Khánh chỉ huy đã vào sân bay, bí mật ém quân gần đường băng,
cách khu sân bay gần 50 mét. Mũi 2, do đồng chí Đỗ Tất Yến chỉ huy đã vượt qua
hàng rào thứ 5, thì gặp một hồ rộng, nước sâu, bèo tốt, không thể lội qua hoặc
vòng qua được. Lúc ấy, đã sắp đến giờ nổ súng, đồng chí Yến đắn đo định cho nổ
súng, báo hiệu cho Mũi 1 cứ đánh, nhưng các đồng chí quân báo dẫn đường đề nghị
không nổ súng mà quay lại đi theo đường của Mũi 1 vào sân bay để cùng đánh.
Lúc 0 giờ 45, cả hai mũi đã triển
khai xong, tất cả thành hàng ngang đối diện với đường băng nơi máy bay đỗ. Theo
hiệu lệnh tiến công, các chiến sỹ dũng cảm xông vào khu máy bay đang đỗ, móc
bộc phá, dật nụ xòe phá huỷ máy bay. Hàng loạt tiếng nổ làm trấn động cả một
vùng, lửa cháy sáng rực bầu trời. Càng về sau, tiếng nổ càng dữ dội, tung lên
những cột lửa và cháy lan sang những mục tiêu bên cạnh, tạo thành một đường lửa
dài theo đường băng máy bay đỗ. Bộ đội ta vừa đánh vừa hô xung phong uy hiếp
quân địch; thừa thắng, quân ta đánh hết mục tiêu này đến mục tiêu khác. Cuộc
chiến đấu diễn ra trong vòng 15 phút, sau đó các mũi nhanh chóng rút ra ngoài
theo đường đã được rải vải trắng đánh dấu đường ra.
Đêm ấy, cả thành phố Hải Phòng và
nhân dân các huyện Hải An, Kiến Thụy, quanh sân bay và ven đường 14, bừng tỉnh
giấc, hướng về Cát Bi đang rực cháy với niềm tin vui sướng vô hạn, càng thêm
tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Sân bay Cát Bi cháy suốt 17 tiếng
đồng hồ, 59 máy bay địch bị phá hủy cùng nhiều phương tiện vũ khí. Bộ đội Kiến
An đã thực hiện thắng lợi vượt mức yêu cầu Khu ủy đề ra.
Chiến dịch phát triển, tổn thất
của quân Pháp càng lớn. Số máy bay bị bắn rơi, bị phá hủy ngày càng nhiều.
Chính phủ Pháp phải huy động tất cả máy bay B26 của nước Pháp sang làm nhiệm vụ
ở Đông Dương. Do hoạt động tích cực và có hiệu quả của quân ta trên chiến
trường, máy bay Pháp phải chấm dứt việc hạ cánh xuống Điện Biên Phủ sau chuyến
cuối cùng vào ngày 26 tháng 3. Địch thừa nhận từ ngày 30 tháng 3 trở đi việc
thả dù ngày càng bị hạn chế. Từ 40 đến 60 phần trăm số hàng được thả dù rơi vào
tay quân ta.
Kết quả và ý nghĩa của trận tập kích
Chỉ 30 phút chiến đấu, địch bị
diệt 6 lính Âu phi, bị phá huỷ 59 máy bay trong đó phần lớn là B26; về phía ta:
3 đồng chí hy sinh, 3 đồng chí bị thương và 1 đồng chí bị địch bắt. Đồng thời,
trong quá trình trinh sát, chuẩn bị và
chiến đấu, ta có 16 cán bộ bị bắt và hy sinh. Trận đánh đã để lại những ý nghĩa
hết sức quý báu cho cách mạng Việt Nam, cụ thể là:
(1). Chiến thắng của trận tập
kích sân bay Cát Bi ngày 07/3/1954 của bộ đội địa phương tỉnh Kiến An đã làm tiêu
hao một lượng lớn sinh lực không quân địch, hỗ trợ đắc lực cho chiến trường
chính Điện Biên Phủ và các mặt trận khác; cổ vũ tinh thần chiến đấu, phục vụ
chiến đấu của quân và dân Hải Phòng, Kiến An và nhiều địa phương khác trong cả
nước hướng về Điện Biên Phủ, tất cả cho chiến thắng Điện Biên Phủ; cổ vũ phong
trào chiến tranh du kích đánh sâu vào căn cứ của thực dân Pháp trên đồng bằng
Bắc Bộ; làm cho Bộ chỉ huy quân Pháp, các sỹ quan, binh lính, tay sai địch
hoang mang, lo sợ, mất hết lòng tin vào sự “bất khả xâm phạm” căn cứ nằm sâu
trong vùng chúng kiểm soát.
(2). Trận đánh sân bay Cát
Bi, diễn ra trước 6 ngày khi ta nổ súng tấn công Điện Biên Phủ, vào thời điểm
địch tăng cường bảo vệ các sân bay để phục vụ cho tác chiến ở Điện Biên Phủ,
việc tập kích thành công vào sân bay Cát bi bằng lực lượng rất tinh nhuệ làm
cho quân đội Pháp càng sa sút tinh thần. Không những chúng bị đánh dữ dội ở
phía trước mà cả phía sau cũng không thoát khỏi những đòn sấm sét của quân và
dân ta. Chiến thắng Cát Bi ngày 7 tháng 3 đã góp phần thúc đẩy nhanh sự sụp đổ
và tan rã của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
(3). Chiến thắng Cát Bi ngày 07/3/1954 là trận tập kích chiến
lớn nhất, tiêu biểu nhất, vang dội trên khắp các chiến trường trong toàn quốc, đánh
dấu bước trường thành vượt bậc của lực lượng vũ trang Hải Phòng về tinh thần
quyết tâm chiến đấu, không sợ gian khổ, hy sinh, trình độ tác chiến với hình
thức tập kích hiệu suất chiến đấu cao; cổ vũ tinh thần cho quân và dân ta xốc
tới quyết chiến thắng lợi trước đối phương; đồng thời tạo sự hoang mang, dao
động trong lực lượng địch trên toàn chiến trường Đông Dương nói chung và chiến
trường Điện Biên Phủ nói riêng. Ngay sau khi nhận được tin trận tập kích sân
bay Cát Bi thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng danh hiệu “Đoàn dũng sĩ Cát
Bi” cho cán bộ, chiến sĩ tham gia trận đánh lịch sử này.
(4) Chiến thắng của trận tập
kích sân bay Cát Bi thắng lợi góp phần quan trọng cho phát triển nghệ thuật
quân sự - chính trị - ngoại giao của Việt Nam. Việc nghiên cứu và tổ chức thực
hiện của các cấp chỉ huy khá chu đáo. Nhờ đó, cán bộ và chiến sĩ tham gia trận
đánh đã phát huy cao độ ý chí chiến đấu, tinh thần kỷ luật tự giác và trình độ
sử dụng vũ khí có trong tay; đặc biệt là nghệ thuật chiến tranh du kích, dựa
vào dân một cách sáng tạo, độc đáo. Kết quả của trận đánh chứng tỏ hậu phương
của ta rất vững chắc. Có dân, được lòng dân là có điều kiện rất cơ bản để khắc
phục khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ.
(5).
Đánh giá về vai trò của trận tập kích sân bay Cát Bi đối với chiến thắng Điện
Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: Ở đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân ta đã tiến hành cuộc chiến tranh toàn
dân, toàn diện với tinh thần dũng cảm, kiên cường, mưu trí sáng tạo, xứng đáng
là một “mặt trận điển hình đánh vào địch hậu”, có hiệu quả và hiệu suất chiến
đấu cao... Những trận đánh “xuất quỷ, nhập thần” xung kích sân bay Gia Lâm, đặc
biệt là sân bay Cát Bi đánh thẳng vào nơi trung tâm quân sự của giặc, đã phá
hủy một bộ phận quan trọng không quân địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các
chiến trường toàn quốc và chiến trường chính Điện Biên Phủ…
Bài học kinh nghiệm rút ra từ trận tập kích
Để có được trận tập kích thắng
lợi khá toàn diện và hoàn hảo ở sân bay Cát Bi rạng sáng ngày 07/3/1954, có thể
rút ra 03 bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:
(1) Ý chí quyết tâm, tinh thần chủ động của Tỉnh
đội và Tỉnh ủy Kiến An trong công tác chuẩn bị, bảo đảm cho trận tập kích thắng
lợi; đồng thời bám sát chỉ đạo, định hướng của cấp trên
Với tinh thần chủ động, ngay từ
tháng 7/1953 Tỉnh đội Kiến An đã tiến hành trinh sát thực địa toàn bộ địa bàn
sân bay Cát Bi và vùng phụ cận để nắm tình hình, cách bố phòng của lực lượng
địch; tạo bức tranh tổng quát về sân bay để hình thành ý định tác chiến tập
kích sân bay. Từ đó lên kế hoạch, tổ chức huấn luyện cho việc tập kích sân bay.
Đồng thời, lãnh đạo Tỉnh đội đề đạt, báo cáo, xin ý kiến, lĩnh hội nghiêm túc ý
kiến chỉ đạo của Tỉnh ủy và lãnh đạo Khu Tả ngạn. Trung ương quyết định mở
chiến dịch Điện Biên Phủ để quyết chiến với địch trên toàn chiến trường. Nhận
mệnh lệnh và yêu cầu chia lửa với chiến trường chính ở cánh đồng Mường Thanh
thuộc Tây Bắc nước ta; quân và dân Kiến An - Hải Phòng đã có đủ điều kiện, xây
dựng kế hoạch chi tiết, hoàn tất các điều kiện, hạ quyết tâm và nhanh chóng
tiến hành trận tập kích thắng lợi.
(2) Đề cao vai trò của dân, lấy dân làm gốc; tạo được
niềm tin yêu của nhân dân, được nhân dân đùm bọc, che chở, ủng hộ
Sân bay Cát Bi với địa thế tự
nhiên 3 mặt giáp sông, biển, phần còn lại tiếp vùng tạm chiếm gắn với nội đô
Hải Phòng; địch bố phòng canh gác hết sức nghiêm ngặt bằng cách thiết lập vùng
trắng xung quanh, dựng nhiều lớp hàng rào thép gai, hệ thống canh phòng dày đặc
và thực hiện tuần phòng liên tục. Vì vậy, việc tiếp cận sân bay trực tiếp để
trinh sát và tác chiến thực địa từ vùng tự do của ta vào là vô cùng khó khăn.
Song bằng lòng quyết tâm, tinh thần quả cảm cùng với sự ủng hộ, chở che, đùm
bọc của nhân dân các vùng ven sân bay, nhất là nhân dân Hòa Nghĩa và các xã lân
cận của huyện Kiến Thụy; cán bộ chiến sĩ của các đơn vị được giao nhiệm vụ ngay
từ giai đoạn trinh sát thực địa đã làm tốt công tác vận động quần chúng, tạo
được cơ sở vững chắc, địa bàn để tác nghiệp. Thành công của trận tập kích gắn
với thời gian dài kéo suốt mấy tháng, từ khi trinh sát thực địa đến khi thực
binh và rút quân sau trận tập kích ghi dấu sự giúp sức to lớn và quan trọng của
nhân dân các địa bàn liên quan.
(3) Kiên cường bám trụ, sẵn sàng đối mặt với những
khó khăn, thử thách để quyết đánh và quyết thắng
Trong suốt quá trình trinh sát
đến khi thực binh trận tập kích thắng lợi kéo dài hơn 8 tháng trong điều kiện
vô cùng khó khăn và phức tạp; nhất là cận kề nhiều hiểm nguy rình rập từ phía
địch, chưa kể những thách thức không nhỏ của điều kiện địa hình, thời tiết.
Nhưng với ý chí và tinh thần quyết tâm của cán bộ, chiến sĩ, các bộ phận được
giao nhiệm vụ… sẵn sàng vượt qua mọi gian nan, thử thách, hy sinh để quyết đánh
quyết thắng.
***
Chiến thắng sân bay Cát Bi đã đi
qua 70 năm, nhưng những bài học về trình độ tác chiến của quân và dân ta từ đó
đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tự hào với truyền thống “Trung dũng - Quyết thắng”, lực lượng vũ trang Hải Phòng luôn phát
huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh phong trào thi đua, ra sức
phấn đấu vượt mọi khó khăn gian khổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời kỳ
mới. Đây cũng chính là chỗ dựa vững chắc, là cơ sở nền tảng và là kim chỉ nam
hành động đối với Đảng bộ thành phố trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng,
phát triển Hải Phòng những năm qua và trong thời gian tới để Hải Phòng xứng
đáng trở thành thành phố đi đầu cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá; là động lực phát triển của vùng Bắc Bộ và cả nước; có công nghiệp phát
triển hiện đại, thông minh, bền vững trên các lĩnh vực; đời sống vật chất và
tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng cao… đáp ứng sự kỳ vọng và tin
tưởng của Trung ương, của Nhân dân cả nước và của các tầng lớp Nhân dân thành
phố Cảng.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Ban Chấp
hành Đảng bộ Đảng CSVN Hải Phòng (1991), Lịch sử Hải Phòng tập 1, Nxb Hải
Phòng;
2. Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện An Hải (1990), Lịch sử Đảng bộ huyện An Hải (1927-1955), Nxb
Hải Phòng;
3. Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện An Lão (2000), Lịch sử Đảng bộ huyện An Lão (1930-2000), Nxb
Hải Phòng;
4. Ban Chấp
hành Đảng bộ quận Lê Chân (2000), Lịch sử Đảng bộ quận Lê Chân, Nxb Hải Phòng;
5. Ban Chấp
hành Đảng bộ thị trấn Tiên Lãng (1997), Lịch sử Đảng bộ thị trấn Tiên Lãng, Nxb
Hải Phòng;
6. Ban Chấp
hành Đảng bộ huyện Vĩnh Bảo (1998), Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Bảo (1930-1996),
Nxb Hải Phòng;
7. Thành
ủy-HĐND-UBND thành phố Hải Phòng (2010), Hải Phòng những chặng đường lịch sử,
Nxb Hải Phòng;
8. Thượng
tướng GS. Hoàng Minh Thảo, Nguyễn Khắc Phòng (2004) Cát Bi Đường 5 - Điện Biên
Phủ, Nxb Hải Phòng;
9. 60 năm
Quân đội nhân dân Việt Nam Anh Hùng (2004) Nxb Quân đội nhân dân;
10. Tài
liệu tại Hội thảo khoa học “Cát Bi - Đường 5 - Điện Biên Phủ” do Sở Khoa học và
Công nghệ tổ chức;
11. Hải Phòng - Lịch sử kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân năm 1986.